Tình trong cuộc sống, tình trong văn thơ, chính những điều này là chất liệu để những tác phẩm văn học của Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh trở nên nổi tiếng, đến gần với độc giả hơn.
Năm 1976 khi Xuân Quỳnh đi công tác miền Nam, Lưu Quang Vũ thường xuyên gửi thư cho Xuân Quỳnh. Những bức thư đầy chất tình, đầy lãng mạn ấy có lẽ là tư liệu để họ viết nên những tác phẩm văn học để đời.
Và chuyện tình của nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và nữ thi sĩ Xuân Quỳnh từ lâu đã trở thành một biểu tượng cho tình yêu đầy ngọt ngào, thơ mộng.
Bức thư mà Lưu Quang Vũ gửi cho vợ mình ngày 5/6/1976
"Quỳnh thương yêu,
Em gắng đi về bằng máy bay cho khoẻ, không mua gì cũng được. Về với anh và con, về với nhà ta đi thôi. Về với phố Huế chật hẹp, với nhà trẻ nơi ta đón Mí, với quán cà phê Nguyễn Công Trứ, nơi ta uống cà phê 2 hào buổi sáng với những gã giáo viên còm, những người công nhân lam lũ và những tay thợ làm đạo cụ sân khấu, về với những con đường chúng ta vẫn đi, những công việc, với cái thành phố nghèo, nơi người ta sống rất khổ mà vẫn luôn tìm cách để sống cho thanh thản trong nỗi khổ ấy, sống thanh thản và yên tĩnh.
Những ngày này nhớ và thương Quỳnh lắm, không nên bực bội về Sài Gòn và người Sài Gòn làm gì. Mùa đông này, về với anh, đi bên anh, nằm bên anh trong căn phòng đầy tranh của chúng ta. Và với Mí tuyệt vời của chúng ta. Và chúng ta sẽ viết chứ, sợ gì em nhỉ ?
Nếu chúng ta là kẻ không có tài chí lắm, không viết được điều gì to tát, thì cũng sẽ viết được những trang sách về những năm tháng ta sống, về những cay đắng và những niềm yêu thương đơn giản của con người.
Hôn em rất lâu."
Ngày 9/6/1978
"Quỳnh nhớ thương
Em đi đã được một tuần. Nhớ em và buồn lắm. Mấy bố con ở nhà vẫn bình thường. Mẹ đi vắng. Mí cứ quấn bố, tối không chịu xuống bà. Hôm nào cũng bảo: bố với em đi đón mẹ đi. Mí ăn được, ngủ được, vẽ thêm nhiều tranh mới. Tuấn Anh xuống bác, bà Tuấn Anh vẫn ở đây, ngày nào Tuấn Anh cũng về đi bơi, xong ăn cơm chiều với bà hoặc với anh rồi lại xuống bác. Kít thì vẫn về luôn.
Anh đang viết gấp cho xong tập sách diễn viên, cũng mới viết được mấy bài thơ và định viết truyện ngắn về Campuchia. Nhuận bút tập thơ của em mẹ bảo có lẽ phải hàng tháng mới có tiền. Mấy bố con cũng túng, nhưng cũng "cầm cự" được vì có cá khô, tôm khô rồi.
Anh làm mọi việc nhà xong, ru con yên thì đã 11 giờ lúc đó mới làm việc. Mới biết em ở nhà làm việc nhà vất vả thật.
Những gì em dặn về nhà cửa, về con anh đều nhớ và lo chu toàn. Chỉ có nhớ em và mong ngày em về. Có lẽ cũng phải 1 tháng nữa em mới về nhỉ.
Em cũng chẳng nên mất thời giờ quá về những việc dự định sẽ mua sắm bên đó, để sức mà đi xem, đi chơi. Đời sống vợ chồng con cái mình rồi cũng đã ổn dần, miễn là mình viết được và in được.
Nhiều việc muốn làm quá, anh rất sốt ruột, sức khỏe thì có hạn. Anh cũng muốn làm xong mọi "com măng" để thư thả mà làm thơ. Anh muốn viết khác đi, hay hơn và chắc rằng sẽ viết được.
Mới đó mà đã giữa năm. Em về 2 vợ chồng sẽ đi đâu với nhau 1 chuyến. Em đi Liên Xô kỳ này, anh cũng rất mừng, sống với nhau, anh chỉ mong em sung sướng và làm việc được. Anh thì mãi mãi vẫn thế: vẫn là anh của em với tất cả những nhược điểm và ưu điểm mà anh có, nhưng sẽ mãi mãi yêu thương em, hơn cả những ngày qua cộng lại.
Mí ngoan và tội lắm, rất khôn. Hôm qua đang chơi cái gì đó, mắng Kít: "Chỉ chuyên phá hoại thôi!". Mí bắt anh đọc bài "thẩm chừi" anh không thuộc, Mí khóc, bảo anh là: "Bố không thuộc mà lại để mẹ đi Liên Xô mất. Bố không thuộc thì bố đi Liên Xô để mẹ ở nhà đọc với em chứ!".
Hôm qua Mí vẽ cái tranh gọi tên là: "Mí đứng dưới ba cửa sổ chờ mẹ!" anh gửi cho em đây.
Hôn em. Nhớ em nhiều. Em ở bên đó xứ sở đẹp đẽ, giàu có, có nhớ đến gian buồng và cái sạp của bố con tôi không?
Anh của em"
Lưu Quang Vũ (17 tháng 4 năm 1948 - 29 tháng 8 năm 1988) là nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam.
Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Với tuổi đời còn khá trẻ, 40 tuổi ông đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Khoảnh khắc và vô tận, Ông không phải bố tôi, Tôi và chúng ta, Tin ở hoa hồng, Nàng Sita... Vở kịch đầu tay "Sống mãi tuổi 17" được trao tặng Huy chương vàng Hội diễn sân khấu. Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.
Thơ Lưu Quang Vũ không chỉ bay bổng, tài hoa mà còn giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Rất nhiều bài thơ của anh được bạn đọc yêu thích như: Và anh tồn tại, Tiếng Việt, Vườn trong phố, Bầy ong trong đêm sâu.... Anh còn là tác giả của nhiều truyện ngắn mang đậm phong cách riêng.
Xuân Quỳnh (1942-1988), là một nhà thơ nữ Việt Nam. Bà được xem là nữ thi sĩ nổi tiếng với nhiều bài thơ được nhiều người biết đến như Thuyền và Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu, Tiếng gà trưa... Bà được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh vì những thành tựu cho nền văn học nước nhà.
Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau như chính tính cách luôn hết mình của Xuân Quỳnh. Những bài thơ khi hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư của nhà thơ luôn gần gũi vì được viết với sự đằm thắm của một người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ. Nhiều bài thơ của Xuân Quỳnh đã trở nên nổi tiếng như Thuyền và biển, Sóng (viết năm 1967, in trong tập Hoa dọc chiến hào năm 1968), Hoa cỏ may, Tự hát, Nói cùng anh... Các bài thơ Sóng, Truyện cổ tích về loài người (Lời ru trên mặt đất, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1978) được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt nam. Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã phổ nhạc rất thành công các bài thơ: Thuyền và biển (4/1963), Thơ tình cuối mùa thu của Xuân Quỳnh.