Độc tố botulinum là gì?
Chất độc botulinum toxin do vi khuẩn Clostridium botulinum (C.botulinum) sinh ra. Đây là một vi khuẩn gram dương kỵ khí, hình que hai đầu tròn, có nhiều lông quanh thân, di động. Trong điều kiện khắc nghiệt, vi khuẩn C.botulinum có thể biến thành dạng nha bào vô cùng chắc chắn, có khả năng tồn tại cao. Do đó, C.botulinum phân bố rất rộng rãi trong tự nhiên, có thể tìm thấy trong đất vườn, phân động vật tươi hoặc đã ủ, bụi bẩn, nước ao, nước sông hồ, ruột gia súc, đặc biệt phát triển mạnh trong thức ăn ôi thiu, thịt hộp để lâu ngày...
Điều kiện để phát sinh độc tố botulinum
Vi khuẩn C.botulinum có đặc điểm kỵ khí, do đó không thể phát triển ở những nơi thông gió tốt, có đủ oxy. Đồng thời, vi khuẩn cũng không phát triển được ở môi trường chua (pH <4.6), mặn (nồng độ muối ăn >5%). Khi thực phẩm đóng hộp có lẫn một vài bào tử C.botulinum do quy trình sản xuất không đảm bảo, trong môi trường được đóng kín không có oxy, nếu thực phẩm không có đủ độ mặn và chua thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn sinh sôi, phát triển, tiết ra độc tố botulinum.
Đây là nguyên nhân phổ biến gây ngộ độc thực phẩm, trước đây hay gặp ngộ độc thịt hộp, tuy nhiên các thực phẩm khác như rau, củ, quả, thịt, hải sản,... nếu được sản xuất và bảo quản không đúng cách đều có thể gây ngộ độc độc tố clostridium botulinum. Tình trạng này thường xảy ra tại các gia đình, sản xuất kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ, không được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng.
Theo Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), trong tự nhiên các bào tử của vi khuẩn clostridium botulinum khá phổ biến, chúng có khả năng sống sót cao ở trong đất và bụi, được tìm thấy trong đất vườn, nghĩa trang, bùn, phân động vật tươi hoặc đã ủ, đường tiêu hóa của động vật, gia cầm, cá... Đặc biệt, bào tử của vi khuẩn clostridium botulinum có thể chịu được nhiệt độ cao 100 độ C.
Clostridium botulinum ở điều kiện thích hợp sẽ tạo thành độc tố và sinh 7 tuýp độc tố A, B, C, D, E, F, G. Trong đó tuýp thường gây ngộ độc là A và B, sau đó đến E. Độc tố của clostridium botulinum có độc lực mạnh hơn độc tố của tất cả các vi khuẩn khác.
Độc tố botulinum nguy hiểm như thế nào?
Độc tính mạnh: Chất độc botulinum là một loại độc tố cực kỳ mạnh. Nó có khả năng gắn kết và chặn truyền tín hiệu từ hệ thần kinh tới cơ bắp. Điều này dẫn đến tê liệt cơ và suy giảm khả năng di chuyển và điều khiển cơ thể.
Ảnh hưởng đến hệ thần kinh: Chất độc botulinum tấn công hệ thần kinh, ảnh hưởng đến truyền tín hiệu giữa các tế bào thần kinh. Điều này gây ra mất cân bằng trong chức năng thần kinh và có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng như suy hô hấp. Người bệnh bị liệt đối xứng hai bên, xuất phát từ vùng đầu mặt, cổ lan xuống chân với các triệu chứng là sụp mi, nhìn đôi, nhìn mờ, đau họng, khó nuốt, khó nói, khàn tiếng, khô miệng.
Tác động lên cơ bắp: Chất độc botulinum gây ra tê liệt cơ bắp do ảnh hưởng đến truyền tín hiệu từ thần kinh tới cơ bắp. Khi cơ bắp bị tê liệt, khả năng di chuyển và hoạt động của cơ bắp bị suy giảm, gây ra khó khăn trong hô hấp, nuốt, nói chuyện và các hoạt động hằng ngày khác. Sau đó liệt tay, liệt các cơ vùng ngực, bụng và liệt hai chân.
Nguy cơ suy hô hấp: Ngộ độc botulinum có thể gây suy hô hấp nghiêm trọng. Khi các cơ bắp hô hấp bị tê liệt, có thể xảy ra khó thở và thậm chí ngừng thở. Điều này đòi hỏi sự can thiệp y tế khẩn cấp và hỗ trợ hô hấp để duy trì sự sống.
Nguy cơ tử vong: Suy hô hấp nghiêm trọng và hệ thống thần kinh bị tấn công là những nguyên nhân chính dẫn đến tử vong trong trường hợp ngộ độc botulinum.
Các triệu chứng khi ngộ độc độc tố botulinum
Các triệu chứng sau thường khởi phát sau 12-36 giờ sau ăn (có thể tới 1 tuần sau ăn):
Tiêu hóa: Nếu nhiễm độc tố botulinum do ngộ độc thực phẩm người bệnh sẽ xuất hiện sớm các triệu chứng buồn nôn, nôn, chướng bụng, đau bụng, sau đó liệt ruột cơ năng, táo bón.
Thần kinh: Người bệnh bị liệt đối xứng hai bên, xuất phát từ vùng đầu mặt, cổ lan xuống chân với các triệu chứng là sụp mi, nhìn đôi, nhìn mờ, đau họng, khó nuốt, khó nói, khàn tiếng, khô miệng. Sau đó liệt tay, liệt các cơ vùng ngực, bụng và liệt hai chân.
Phản xạ gân xương thường giảm hoặc mất, không có rối loạn cảm giác.