Đến cuối năm nay, các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo (SSBN) của Trung Quốc có thể tiến hành các cuộc tuần tra răn đe lần đầu tiên của mình. Điều này sẽ làm thay đổi cán cân quyền lực ở Thái Bình Dương như thế nào?
Lịch sử của chương trình
Trung Quốc hoàn thành SSBN đầu tiên - tàu Xia Type 092 - vào năm 1981. Tuy nhiên, con tàu không được đưa vào phục vụ mãi đến năm 1987 và được cho là chưa bao giờ thực hiện một cuộc tuần tra răn đe.
Tàu ngầm hạt nhân Type 092 Xia. Ảnh: Mark Pyruz |
Con tàu (có rất nhiều tin đồn trong những năm qua đó là một con tàu chị em của nó đã được xây dựng và rồi mất hút) đại diện cho chiến thắng của ngành công nghiệp đóng tàu ngầm hạn chế của Trung Quốc nhưng không tạo thành vũ khí răn đe có ý nghĩa.
Nỗ lực thứ hai của Trung Quốc, tàu lớp Type 094, đã tạo ra lớp tàu hiệu quả hơn. Các tàu Type 094 chiếm chỗ khoảng 11.000 tấn khi chìm và mang 12 tên lửa đạn đạo bắn từ tàu ngầm (SLBM) JL-2, có thể bắn một đầu đạn hạt nhân bay xa khoảng 7.500 km.
Có nhiều báo cáo khác nhau về việc liệu các tên lửa có thể có công nghệ đa đầu đạn phân hướng (MIRV) hay không thì những tiến bộ của Trung Quốc trong lĩnh vực này cho thấy, mai sau, Type 094 và các con tàu trong tương lai có thể mang công nghệ trên.
Như vậy, cho đến nay, Trung Quốc đã sản xuất khoảng 4 tàu ngầm lớp Type 094, tối thiểu cần cho việc tiến hành tuần tra răn đe liên tục.
Bước tiếp theo là tàu SSBN "Tang" Type 096. Có nhiều báo cáo về thông số thiết kế và ngày triển khai dự kiến nhưng con tàu này chắc chắn sẽ lớn hơn, êm ả hơn và có nhiều tên lửa mang nhiều đầu đạn hơn. Type 096 được kỳ vọng sẽ mang 24 tên lửa SLBM JL-3 với tầm bắn lên đến 10.000 km.
Được triển khai một cách thích hợp, bất cứ tàu ngầm hiện đại nào cũng có thể tấn công Mỹ bằng tên lửa hạt nhân. Type 096 có thể tấn công Mỹ từ các khu vực an toàn ở gần bờ biển của Trung Quốc. Lầu Năm Góc hiện tin rằng Trung Quốc sẽ sản xuất tổng cộng khoảng 8 tàu SSBN. Điều này giúp Hải quân PLA (PLAN) có khả năng duy trì nhiều tàu để tuần tra liên tục. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc phần lớn vào việc liệu Trung Quốc có thay đổi toàn bộ thế trận hạt nhân của mình, từ răn đe tối thiểu thành theo đuổi tích cực hay không.
Chiến lược “pháo đài”
Tàu ngầm Type 092 không thể triển khai thực tế và kết quả là đã thôi hoạt động. PLAN đã tiến hành các bài tập lớn với tàu Type 094, có lẽ để chuẩn bị cho cac cuộc tuần tra răn đe đầu tiên của mình.
PLAN đã phát triển một cơ sở hạ tầng rộng lớn để phục vụ cho các tàu này. Tuy nhiên, tàu Type 094 không thể hoạt động độc lập trong điều kiện xung đột cường độ cao. Những tàu ngầm này nổi tiếng ồn ào hơn cả các SSBN từ những năm 1970 của Xô Viết khiến chúng dễ dàng trở thành miếng mồi cho các tàu ngầm tấn công của Mỹ.
Trước những bất lợi này, có vẻ như Trung Quốc sẽ áp dụng khái niệm "pháo đài" mà Liên Xô đã hướng dẫn để triển khai SSBN trong Chiến tranh Lạnh. Theo đó, Liên Xô đã thông qua chiến lược pháo đài bởi họ quan ngại về khả năng sống sót của các SSBN của mình và hoang tưởng về cuộc tấn công phủ đầu Mỹ. Dù điều gì xảy ra thì tàu của Trung Quốc vẫn ít khả năng sống sót hơn so với tàu ngầm Liên Xô cuối Chiến tranh Lạnh. Trung Quốc có nhiều yếu điểm hơn khá nhiều so với của Liên Xô khi ngăn chặn tấn công hạt nhân. Do đó, một chiến lược pháo đài sẽ tạo ra sự chấn an. Tuy nhiên, PLAN cần đẩy mạnh phát triển khả năng tác chiến chống tàu ngầm để tạo ra mối đe dọa thực sự đối với các tàu ngầm tấn công Mỹ.
Một mặt, sự ồn ào của các tàu ngầm Trung Quốc khiến chúng dễ dàng bị tàu ngầm tấn công Mỹ tìm thấy. Mặt khác, răn đe hạt nhân bấp bênh không tốt cho sự ổn định của cuộc khủng hoảng. Tiếng ồn của SSBN trở thành mục tiêu hấp dẫn cho các tàu ngầm tấn công hạt nhân. Trong một cuộc chiến, Mỹ (hoặc Nhật Bản, Ấn Độ) có thể nhấn mạnh vào lợi thế này bằng cách phối hợp để tiêu diệt các tàu ngầm Trung Quốc. Đây chính là chiến lược đúng đắn mà Hải quân Mỹ đã đề ra từ những năm 1970-1980, tấn công "pháo đài" mà SSBN của Liên Xô đang tuần tra.
Trong khi việc đánh chìm SSBN có vẻ hấp dẫn, một chiến dịch theo dự tính có thể tạo ra tâm lý "không dùng thì mất" trong Đảng Cộng sản Trung Quốc và chắc chắn sẽ làm tăng những quan ngại về ý định leo thang của Mỹ. Trong thời gian ngắn, tính chất dễ bị tấn công của SSBN Trung Quốc vừa là cơ hội, vừa là vấn đề cho Mỹ.
Hiệu quả răn đe
Trên thực tế, việc mở rộng tàu ngầm hạt nhân đánh chặn của Trung Quốc không tác động nhiều tới Mỹ. Như trường hợp của Liên Xô trước kia, giờ đây là Nga, Trung Quốc có nhiều lý do để kiềm chế việc tung các tàu này ra.
Quyết định để dành các nguồn lực cho hạm đội SSBN có thể do những quan ngại về sự ưu việt trong hạt nhân của Mỹ, với tư tưởng là Mỹ có thể tiêu diệt dứt khoát lực lượng hạt nhân trên mặt đất của Trung Quốc.
Việc triển khai thêm các tàu ngầm chắc chắn sẽ khiến cuộc răn đe thứ hai của Trung Quốc phần nào được đảm bảo hơn nhưng Mỹ sẽ yêu cầu sự đảm bảo cực cao để thực hiện cuộc tấn công đầu tiên dưới bất cứ điều kiện nào.
Các lực lượng hải quân mạnh nhất trên thế giới đã đúc rút ra, SSBN có nhiều ưu điểm nhưng cũng có bất cập.
SSBN ngốn tiền và các nguồn lực ở mọi giai đoạn, từ thiết kế đến phát triển và mang lại rất ít giá trị hoạt động. Hải quân Mỹ đã miễn cưỡng thay thế tàu Ohio mặc dù việc này không cần bàn cãi.
Khả năng Anh thay thế lực lượng SSBN của mình vẫn còn là một câu hỏi mở. Thậm chí, người Nga còn thay thế những SSBN có từ thời Chiến tranh Lạnh một cách chậm chạp.
Ngoài ra, chiến lược "pháo đài" là cực kỳ tốn kém vì họ buộc phải triển khai các đơn vị hỗ trợ trong vùng lân cận của một SSBN.
Những câu hỏi thú vị hơn được đưa ra khi Trung Quốc cố gắng bắt kịp Mỹ (và Nga) về công nghệ tĩnh lặng. Nếu các SSBN của PLAN trong tương lai có khả năng tàng hình đủ để hoạt động độc lập thì chiến lược đánh chặn của Trung Quốc có thể giống với Mỹ hơn là Liên Xô. Tình cờ, điều này sẽ giúp các đơn vị chống ngầm và tàu bề mặt được giải phóng để làm việc khác.
Trong trường hợp nào thì sự hiện diện của các tàu ngầm SSBN Trung Quốc cũng sẽ làm gia tăng các vấn đề tại khu vực dù Mỹ - Trung có đi tới chiến tranh hay không.
Bảo Linh (theo National Interest)