Quả nhiên, hôm ấy ông già kéo được rất nhiều cá. Rồi từ đó, ngày nào ông cũng ra đầm khấn và lại được nhiều cá. Mọi người đánh cá thấy thế liền hỏi ông, ông già chỉ bảo và họ làm theo. Và điều kỳ lạ cũng xảy ra, họ cũng kéo được rất nhiều cá. Để nhớ ơn thần rắn, mọi người sinh sống bằng nghề chài lưới đã tập hợp nhau lại. Họ đắp đất thành một cái bệ đất rồi trồng cây xung quanh cái bệ ấy. Dân chài lưới ngày ngày vào đó cầu khấn.
Hiện, dân làng vẫn truyền tụng nhau những câu chuyện huyễn hoặc về vùng đất thiêng liêng này. Theo đó, sau tin đồn về ngôi đền thiêng ở đây, người dân khắp nơi biết tiếng, họ mang hương hoa đến lễ bái. Một ngày kia, tin đồn đến tai Đế đình. Đúng lúc trời gây tai hạn hán. Lúa, mạ khắp nơi không có nước bị héo khô, khắp nơi, giếng cạn khô, người không có nước uống.
Đế đình liền phát lệnh cho hơn một trăm nơi đền miếu linh thiêng nhất để làm lễ cầu mưa. Lúc bấy giờ, nghe tin bệ đầm linh thiêng, nhà vua đã phái quần thần sửa lễ, các quan đem lễ về bệ đầm làm lễ. Khi đang lễ, cơn bão táp đổ nước xuống ầm ầm, không chứa đâu cho hết nước. Các quan triều đình không có nơi trú ẩn đều bị ướt sũng. Triều thần về tâu lên Đế đình, nhà vua ban cho tiền bạc về xây dựng một ngôi miếu đình tại đất Anh Sơn, địa phận xứ Đồng Mồ (chính là đất thuộc phường Mễ Trì bây giờ) để “ức vạn niên phụ sự hương hỏa”.
Nhà vua ban sắc chỉ, xuân thu nhị kỳ, triều thần về tế lễ cấp quốc gia. Đình lấy tên là Đức Thánh Đầm. Đồng thời đổi tên khu vực này thành Mễ Trì (tức ao gạo) như ngày nay.
Theo người dân địa phương, vào những ngày lễ, Tết hằng tháng, hằng năm, quan lại từ triều đình và khắp nơi phải đến đền thờ Đức Thánh Đầm để dâng hương, cầu mong đất nước an bình, mưa thuận gió hòa, dân chúng cày cấy được mùa, ăn nên làm ra. Thần phả làng Mễ Trì còn ghi rằng: “Những người tình duyên trắc trở, hiếm muộn con cái khi đến đây dâng hương cầu khẩn đều được linh ứng”. Vì vậy mà người đến đền không chỉ có quan lại cao cấp mà còn cả những người bần cùng, nghèo khó...
Đền cổ bí ẩn ở dưới đáy giếng?
Theo truyền thuyết, vị trí rắn thần quẫy đạp thoát thân ra khỏi chiếc chum, người dân đào thành giếng, nước đầy ăm ắp, gọi tên là giếng trời. Từ vị trí này đến ngôi đền chỉ khoảng 200m. Xung quanh chiếc giếng, người dân vẫn nhớ một giai thoại khác.
Khi đền ở ngoài đầm được xây dựng lên, một số cụ già trong làng tranh nhau chức thủ từ, nảy sinh lòng tham cá nhân. Đêm ấy, trời mưa xối xả, sấm chớp đùng đùng, hôm sau người dân ra đình bỗng thấy trống trơn, ngôi đền biến mất, đến một viên ngói cũng không còn sót.
|
Giếng trời làng Mễ Trì - tương truyền có một ngôi đền nằm sâu dưới đáy giếng. Ảnh: PLVN |
Thời gian sau đó, dân chúng gặp nắng hạn, phải tập trung trai tráng ra nạo vét các giếng để lấy nước ăn, bốc vét bùn lầy để thông thủy mạch. Khi nạo vét giếng ở gần đầm, mọi người đào sâu bốc vét hết được bùn mang lên, lạ thay thấy một cái đình ở sâu đáy giếng. Một người con trai họ Ngô thấy một chiếc chiêng đồng liền cầm lên đánh kêu ba tiếng thì ngay lập tức lăn đùng ra chết. Dân làng sợ hãi kinh hoàng, đem chiêng đó đặt ngay xuống giếng, chỉ chớp nhoáng trong giếng nước, mạch nổi lên đầy, mưa gió tầm tã, người nào cũng run sợ kinh hoàng. Kể từ đó, mỗi lần tát giếng, mọi người vẫn thấy có một cái đình ở dưới đáy giếng.
“Mọi người truyền tụng nhau rằng, nhà ở đáy giếng là nhà của Đức Thánh Đầm, rắn thần là dòng dõi con vua Thủy Tề. Dân làng liền xây dựng trên bờ một bệ thờ. Khi gặp hạn hán, các cấp phủ, huyện lệnh sức xuống cho quan xã cùng dân chúng sửa lễ đem ra bệ đầm cầu đảo, nếu cầu rồi mà không mưa thì lệnh cho tát giếng trời thì trời tấn sẽ mưa to”, ông Lợi nói và cho biết, thời bao cấp trước đây, cả làng Mễ Trì rộng lớn dùng chung chiếc giếng này nhưng nước không bao giờ vơi cạn. Hiện nay mọi nhà dùng nước máy, nhưng giếng được dân làng bảo vệ chu đáo, thả cá chép đỏ xuống nuôi, không ai dám xâm phạm.
Cũng theo ông Lợi, khi Trung tâm hội nghị quốc gia được xây dựng cách đây không lâu, biết người dân nơi đây quý trọng ngôi đền, dự án xây dựng công trình mang tầm cỡ quốc gia này đã dành một phần diện tích để người dân tiếp tục tín ngưỡng, thờ cúng theo phong tục tốt đẹp của địa phương.
Để tưởng nhớ công ơn Đức Thánh Đầm, hàng năm vào 18/2 âm lịch, dân làng tổ chức lễ cúng linh đình tại khuôn viên đền. Ngoài ra, cứ 5 năm một lần, dân 2 làng Mễ Trì Thượng và Mễ Trì Hạ thay phiên nhau tổ chức lễ rước kiệu, đi qua nhiều đường phố trong khu vực. Năm chẵn thì làng Thượng chủ trì việc rước kiệu, năm lẻ thì làng Hạ.
Đức Hòa (tổng hợp)