Cách đây khá lâu, cánh đồng rộng lớn ở Thoại Sơn bỗng nhiên xuất hiện những hòn đá với đủ màu sắc, kích cỡ nằm nổi trên mặt đồng.
Những câu chuyện linh thiêng, huyền bí cũng xuất phát từ loại đá kỳ lạ xen lẫn với vàng này. Dân gian lưu truyền rằng, không ai có thể mạo phạm hay đem những phiến đá có hình thù như bàn tay con người đẽo, gọt này về nhà. Ai cố tình đào đất, xới ruộng để săn vàng sẽ trở nên điên dại?
Bí ẩn đồng đá nổi
Cánh đồng đá nổi lọt thỏm giữa vùng đồng ruộng rộng lớn thuộc ấp Phú Tây, xã Phú Thuận (H.Thoại Sơn, An Giang). Những câu chuyện huyền bí đã biến cánh đồng vốn chỉ là vùng đất hoang vu, chơ vơ đá tảng, trở thành địa điểm linh thiêng bậc nhất Thoại Sơn.
Cánh đồng đá nổi bây giờ đã trở thành đồng rộng thênh thang. Ảnh Hà Nguyễn. |
Hằng ngày, dù nắng hay mưa, dòng người vẫn đổ về khu vực này chiêm bái, ngưỡng vọng. Người dân địa phương cho biết, cánh đồng đá nổi nổi tiếng với những câu chuyện bí ẩn từ 70 - 80 năm về trước. Thời điểm trên, khu vực này chỉ là một vùng đất hoang vu, mặt đất nổi đầy các loại đá to nhỏ, màu sắc khác nhau. Những câu chuyện kỳ lạ bắt đầu từ chính những phiến đá đặc biệt này.
Ông Văng Công Trạc (45 tuổi, ngụ ấp Phú Tây, xã Phú Thuận, H. Thoại Sơn, An Giang), Trưởng ban Quý tế miếu Đá Nổi cho biết: “Trước kia, khu vực này là một cánh đồng rộng lớn, mặt đất nổi nhiều loại đá có hình dạng khác nhau. Ở Thoại Sơn có nhiều đất ruộng nhưng chỉ khu vực này là xuất hiện đá nổi. Các phiến đá ở đây hết sức đặc biệt.
Bởi có hình thù, màu sắc bắt mắt, không ít lần, những phiến đá được người dân tìm cách đào lên, nhặt về làm vật dụng trong nhà. Tuy nhiên, tai ương bắt đầu rơi xuống gia đình những người đem đá từ đồng về nhà.
Ông Văng Hồng (50 tuổi, ngụ ấp Phú Tây), một cán bộ huyện đã về hưu khẳng định: “Năm 14-15 tuổi, tôi vẫn thường thả bò vào đồng đá nổi để chăn. Lúc này, đồng đá đã có cái miếu nhỏ, tiền thân của miếu Đá Nổi bây giờ. Do đi lại nhiều lần nên tôi chứng kiến và nghe nhiều câu chuyện linh thiêng về đồng đá nổi. Việc người lấy đá từ đồng về bị quở dẫn đến bệnh tật, tâm thần, chết là chuyện đã từng xảy ra và rất khó lý giải”.
Theo ông Hồng, trước đây, gia đình ông M.T. cũng là người địa phương, đi qua cánh đồng thấy có phiến đá hình cái ghế đẩu, mặt nhẵn mịn rất đẹp, nên người nhà ông này đem về nhà ngồi. Tuy nhiên, được ít hôm, ông M.T. đột nhiên lâm bạo bệnh, thuốc thang không khỏi. Được người mách nước, ông soạn lễ, đem phiến đá trả lại vào miếu mới hoàn hồn.
Từ những câu chuyện ly kỳ trên, dân địa phương truyền nhau nghiêm cấm trẻ em, thanh niên trong vùng không được mạo phạm, không được ngồi lên đá, không ai dám tự tiện lấy đá từ đồng về nhà. Khi canh tác, người dân vấp phải đá cũng chỉ dám nhặt đá lên, đem về xếp trước sân, trong khuôn viên miếu Đá Nổi.
Kho vàng khổng lồ chưa phát lộ?
Theo ông Hồng, đồng đá nổi một thời không chỉ thu hút giới săn đá cảnh mà còn hấp dẫn cả những kẻ săn vàng. Câu chuyện cục vàng to như quả trứng liên tục lăn vào tay bà Bảy, người có công khai hoang, dựng miếu Đá Nổi từ thuở sơ khai đã gắn liền với sự linh thiêng, kỳ bí của mảnh đất này.
Khối đá hình lưỡi đao được nhận định là hết sức linh thiêng từng nằm trên đồng đá nổi. Ảnh Hà Nguyễn. |
Ông Hồng kể: “Người xưa truyền lại rằng, đầu tiên đồng đá nổi chỉ có gia đình ông bà Bảy sinh sống. Hai người này vốn là đạo sỹ từng tu ở núi Cấm, nhưng được bề trên truyền mệnh bảo về giữa đồng đá nổi này lập am để tu. Ban đầu, ông bà cùng với một con chó chỉ dựng chòi lá làm miếu để thờ. Khi bà Bảy ra đồng hái rau ăn qua ngày, thì cục vàng như quả trứng vịt cứ lăn vào tay bà. Mặc cho bà tránh, không nhặt, viên đá cứ tìm hướng tay bà lăn đến. Bà đem cục vàng đó vào miếu, đặt lên bệ thờ để thờ”.
Từ những câu chuyện trên, những kẻ săn vàng theo chân người dân địa phương kéo về đồng đá nổi để đào vàng. Ông Hồng cho biết, khắp một vùng đồng đá nổi, những kẻ săn vàng lật tung đất tìm vàng. “Thời điểm đó, người ta kéo về đây đào vàng nhiều lắm. Có người đào được vàng lá, vàng tép, vàng được làm thành các món đồ trang sức, vàng hình quả trứng.
Tôi nhớ khoảng năm 1982, người ta đào sâu xuống đến tận 2m đất ruộng và lấy được vàng ròng cùng nhiều đồ cổ như bình tích, đồ gốm. Sau này, khoảng năm 1985, Nhà nước mới có cuộc khai quật để nghiên cứu. Tôi nhớ không nhầm thì lần khai quật này, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy các cổ vật bằng vàng, văn tự cổ, xương thú, nanh heo, ngà voi,... Nghe họ nói rất có thể vùng đất này ngày trước từng là thành quách của thời vua chúa nào đó. Bây giờ, một số hiện vật được khai quật vẫn đang được trưng bày ở Bảo tàng tỉnh An Giang”.
Ông Hồng cho biết, hiện nay, đá nổi đã không còn vì người dân thỉnh hết đá về miếu để lấy đất canh tác. Tuy nhiên, những câu chuyện huyền bí không vì thế mà lắng xuống. “Do cần đất để canh tác, người dân đều tìm cách lấy đất lấp đá để làm ruộng, những phiến đá có thể xê dịch được, người dân cũng không dám đem đi chỗ khác mà gom lại, xếp vào khuôn viên miếu. Do vậy, bây giờ, đồng đá nổi đã không còn như trước, nhưng những chuyện bí ẩn vẫn được người dân lưu truyền”, ông Hồng nói.
Đó là những câu chuyện nửa thực, nửa hư chưa có lời giải, như việc nhiều người dùng sức kéo của trâu bò nhưng không thể lay chuyển, di dời được một tảng đá chưa đầy một người ôm. Tuy nhiên, sau khi vào miếu làm lễ, khấn xin, chỉ hai người thôi cũng có thể đưa phiến đá về xếp giữa khuôn viên miếu(?!).
Do đó, sau những câu chuyện ly kỳ, khó giải thích, mặc dù cánh đồng đá nổi vang tiếng một thời đã không còn thấy đá, người dân nơi đây vẫn tin tưởng tuyệt đối vào sự linh thiêng của đất này. Những phiến đá to, nhỏ, hình thù từ kỳ dị, quen thuộc đến bất ngờ vẫn được người dân cung kính xếp vào những cái miếu nhỏ trong miếu Đá Nổi, để nhang khói, thể hiện lòng ngưỡng vọng, chiêm bái.
Từng có đề xuất tái hiện cánh đồng đá nổi Ông Văng Công Trạc, Trưởng ban quý tế miếu Đá Nổi cho biết: “Cánh đồng đá nổi là một nét văn hóa đẹp của địa phương. Do vậy, phòng Văn hóa huyện Thoại Sơn từng có ý định tái hiện cánh đồng này. Tuy nhiên, do người dân đã lấp đá làm ruộng, nên ý định trên khó thực hiện được. Hiện tại trong miếu vẫn giữ những hiện vật là cổ vật khai quật được, các nhà khảo cổ cũng cho biết khu vực này có giá trị trong việc nghiên cứu văn hóa Óc Eo”. |
HÀ NGUYỄN – NGỌC LÀI/ Đời sống & Pháp luật