Phán quyết gần đây của Tòa trọng tài Quốc tế đối với vụ kiện mà Philippines đưa ra chống lại Trung Quốc được các nước - vốn đang lo ngại leo thang căng thẳng tại Biển Đông - chào đón. Tuy nhiên, tại Trung Quốc, phán quyết này lại gây ra thách thức.
Sau phán quyết của Tòa trọng tài thường trực PCA, chủ nghĩa dân tộc tại Trung Quốc được dịp bùng nổ. Ảnh: US Navy |
Như dự kiến, chính phủ Trung Quốc tái khẳng định quan điểm vững chắc của họ: Không công nhận thẩm quyền của tòa và không chấp nhận phán quyết. Quân đội của họ bắt đầu những cuộc tập trận mới và tuyên bố tuần tra trên không tại Biển Đông. Một đô đốc của Trung Quốc còn cảnh báo Mỹ rằng các hoạt động tự do hàng hải của họ có thể "gây ra tai họa". Trong khi một vị khác tuyên bố Trung Quốc sẽ không bao giờ dừng lại nửa chừng hoạt động xây dựng phi pháp tại các rạn san hô thuộc quần đảo Trường Sa. Người này nói thêm rằng "Hải quân Trung Quốc đã chuẩn bị để phản ứng với bất cứ hành vi vi phạm quyền lợi hay sự gây hấn nào". Một nguồn tin thân cận với quân đội Trung Quốc nói với Reuters: "Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã sẵn sàng".
Không chịu thua kém trong việc thể hiện lòng yêu nước, Hiệp hội Hạt nhân Quốc gia Trung Quốc còn tuyên bố họ sẽ xây các nhà máy điện hạt nhân tại Biển Đông và giải thích rằng "việc xây các nhà máy điện hạt nhân trên biển sẽ hỗ trợ Trung Quốc kiểm soát hiệu quả Biển Đông".
Được biết, WeChat và microblog, được đa số người dân Trung Quốc sử dụng hàng ngày, đã ngập tràn 2 bức ảnh. Một là lá thư kêu gọi các cựu chiến binh ghi danh nhập ngũ lần nữa, với bình luận tương tự: "Nếu chiến tranh nổ ra, tôi sẽ trở lại chiến trường trước khi có lời kêu gọi". Bức ảnh còn lại là bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc với lời đề tựa: "Đây là lãnh thổ Trung Quốc, một tấc đất cũng không để bị mất".
Tuyên bố trên trang nhất của tờ Nhân dân Nhật báo cũng viết: "Chúng tôi không đòi một tấc đất không thuộc về mình nhưng chúng tôi sẽ không từ bỏ bất kỳ mảnh đất nào của mình".
Rất nhiều người Trung Quốc cho rằng vụ kiện lên tòa trọng tài này là một âm mưu của Mỹ, Nhật (Chủ tịch Tòa trọng tài Quốc tế về Luật Biển khi ấy, người đã bổ nhiệm 4 trong số 5 thẩm phán, là người Nhật Bản) và Philippines nhằm cướp lãnh thổ của Trung Quốc cũng như "quyền lịch sử" đối với hơn 80% Biển Đông. Quá đáng hơn, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc còn cáo buộc các thẩm phán là bị đồng tiền chi phối.
Tuy nhiên, khi đọc phán quyết này mới thấy những lời than trách trên là sai lầm.
Không phải phán quyết về lãnh thổ
Thứ nhất, về vấn đề lãnh thổ, tòa án không đưa ra bất cứ tuyên bố nào chống lại dù chỉ một tấc đất của Trung Quốc hay lãnh thổ thuộc về bất cứ nước nào. Điều này phù hợp với thực tế là tòa không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Tòa chỉ đưa ra phán quyết về 200 hải lý vùng Đặc quyền kinh tế (EEZ), một khái niệm đã được xác định trong UNCLOS và điều này khác với lãnh thổ. Nhưng tòa có đưa ra phán quyết về những rạn sao hô và đảo thấp dưới mức thủ triều - theo luật quốc tế thì đây không được coi là "đảo" - do đó, đây không phải là lãnh thổ mà quốc gia nào có thể tuyên bố chủ quyền. Trong ngắn hạn, tòa không chạm vào bất cứ phần lãnh thổ trái phép nào của các nước. Tất cả các bên tranh chấp, cụ thể là Brunei, Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Việt Nam vẫn có thể tiếp tục tranh cãi về những vùng lãnh thổ tại Biển Đông.
Điều đáng chú ý là cả Malaysia và Việt Nam, 2 bên có yêu sách tại Biển Đông, đều không nổi giận chỉ trích Tòa trọng tài làm sai chủ quyền lãnh thổ của họ.
Vậy thì tại sao Trung Quốc lại giận dữ về chủ quyền lãnh thổ? Lý do thứ nhất đó là Trung Quốc đưa ra những yêu sách hoàn toàn trái ngược với chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Cụ thể, họ đã đòi yêu sách với vùng biển mà không nước nào có thể tuyên bố chủ quyền một cách hợp pháp. Lý do thứ hai là chính phủ Trung Quốc đang cố xuyên tạc phán quyết về EEZ thành chủ quyền lãnh thổ. Cả 2 lý do này đều ủng hộ cho quan điểm của Trung Quốc là tòa không có thẩm quyền tuyên vụ án này và để khơi dậy tình cảm dân tộc, lợi dụng niềm tin của nhân dân là người nước ngoài đang đánh cắp lãnh thổ Trung Quốc khi đất nước còn yếu.
Phán quyết về EEZ và các quyền lịch sử
Vậy thì chính xác tòa trọng tài đã đưa ra phán quyết gì về EEZ? Có 2 điều. Thứ nhất, khi một nước ký UNCLOS thì điều đó đã triệt tiêu những tuyên bố đối với các quyền lịch sử của họ tại EEZ của nước khác. Đáng chú ý, sự triệt tiêu này không bao gồm các tuyên bố đố với chủ quyền lãnh thổ trên đảo và các vùng biển của họ. Thứ hai, không vùng lãnh thổ nào tại quần đảo Trường Sa đáp ứng được các yêu cầu của UNCLOS để được hưởng EEZ. Những quyết định này áp dụng cho cả Philippines và Trung Quốc.
Về phán quyết của tòa đối với các quyền lịch sử tại EEZ của các nước khác, người Trung Quốc với tình cảm dân tộc ngút trời dường như không ý thức được một thực tế đó là phán quyết của tòa thực sự phù hợp với quan điểm của Trung Quốc về đường 9 đoạn khi mà đường này lần đầu tiên được vẽ ra từ ít nhất vài thập kỷ trước.
Một số người tin rằng Trung Quốc có "các quyền lịch sử" đối với vùng biển mà đường 9 đoạn bao quanh, chỉ đơn giản là vì lịch sử tạo ra điều đó. Trong khi đó, cựu lãnh đạo Đài Loan Mã Anh Cửu từng tuyên bố khi chính phủ Quốc dân đảng của Trung Quốc lần đầu thông qua đường 9 đoạn vào năm 1947, đường này được dự định là tuyên bố đối với các đảo mà nó bao quanh, và không tuyên bố các quyền đối với vùng biển cũng như đáy biển. Trung Quốc sau đó đã duy trì được quan điểm này thông qua việc áp dụng công ước Vienna về lãnh hải và thềm lục địa vào những năm 1950. Đáng chú ý, vào những năm 1960 và 1970, Indonesia, Malaysia, Philippines và miền nam Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với các phần khác nhau ở thềm lục địa tại khu vực phía nam Biển Đông. Các phần này mở rộng bên trong đường 9 đoạn mà cả Trung Quốc lẫn Trung Hoa dân quốc khi ấy đều không phản đối.
Trong các cuộc đàm phán UNCLOS III, được kết luận vào năm 1982, Trung Quốc là người ủng hộ mạnh mẽ chính thể 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế cho các quốc gia ven biển và họ không bao giờ đưa ra khái niệm về quyền lịch sử cho vùng biển, đáy biển bên trong đường 9 đoạn. Một số học giả Trung Quốc nhận ra điều này và trong thời gian đó, Trung Quốc đã lãng quên quyền lịch sử của mình. Lập ra đường 9 đoạn nhưng không tuyên bố các quyền đối với vùng không gian trên biển, đến các cuộc đàm phán UNCLOS III, Trung Quốc cũng chưa hề khẳng định những quyền này, hay nói chính xác hơn là Trung Quốc vẫn chưa phát minh ra chúng chứ không phải là quên mất chúng.
Mãi đến năm 1992 Trung Quốc mới lần đầu tuyên bố về thềm lục địa ở phía nam Biển Đông khi họ ký hợp đồng ủy quyền cho công ty Mỹ, Crestone, khai thác dầu tại khu vực bãi cạn Tư Chính (Vanguard Bank). Năm 1992 là năm mà khái niệm "quyền lịch sử" của Trung Quốc đối với đáy biển bên trong đường 9 đoạn lần đầu được hình thành.
Đơn giản là những tình cảm dân tộc đối với "các quyền lịch sử" đối với vùng không gian trên biển trong đường 9 đoạn là kết quả của niềm tin phổ biến nhưng sai lầm rằng Trung Quốc đã tuyên bố yêu sách và thực hiện các quyền đó ít nhất là từ năm 1947.
Ngoài thực tế là tạo ra những bằng chứng lịch sử không có giá trị pháp lý, khi một nước ký vào một hiệp ước cùng với hầu hết phần còn lại của thế giới và được hưởng lợi từ hiệp ước này thì họ không thể xé nát nó và phát minh ra thứ mà họ nghĩ tương xứng hơn cho sự lớn mạnh của hải quân nước mình.
Với quan điểm của tòa án về "các quyền lịch sử", phán quyết tòa đưa ra là không có thực thể nào tại quần đảo Trường Sa được hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Điều này là quan trọng. Nếu không có phán quyết này, thì ngay cả khi những tranh cãi về "các quyền lịch sử" được dập tắt, Trung Quốc vẫn sẽ có thể cố chấp bám theo những yêu sách hàng hải bằng cách cãi cố rằng quần đảo Trường Sa thuộc về họ và họ được hưởng 200 hải lý EEZ xung quanh. Trớ trêu thay, tình cảm dân tộc đã bám chặt lấy "lãnh thổ" và "lịch sử" nhưng hoàn toàn phớt lờ phán quyết của tòa.
Luật pháp quốc tế bị gạt lại phía sau
Điều thú vị là có rất ít học giả của đất nước đông dân nhất thế giới để cho công chúng Trung Quốc thấy cái nhìn khác. Khi phần lớn các học giả có phản ứng gay gắt với vấn đề này thì một học giả chống lại nó chẳng khác gì tự sát. Vậy nên hầu hết giới phân tích Trung Quốc chỉ lặp đi lặp lại câu chuyện mà họ lưu truyền chính thức và thổi bùng lên ngọn lửa của chủ nghĩa dân tộc.
Khi một nước cố chấp theo đuổi phiên bản luật pháp quốc tế của riêng mình, họ cho rằng quan điểm và tư cách của mình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kết hợp với chủ nghĩa dân tộc và sức mạnh đang trỗi dậy của Trung Quốc, điều đáng quan ngại là các luật sư quốc tế của Trung Quốc còn coi thường phán quyết của tòa trọng tài quốc tế.
Hiện nay, chủ nghĩa dân tộc đang gắn liền với sức mạnh của Trung Quốc. Không có dấu hiệu cho thấy phản ứng của nước này đối với vụ kiện sẽ chỉ ra Trung Quốc sử dụng sức mạnh đó để theo đuổi lợi ích quốc gia, đặc biệt là tại Biển Đông hay những nơi khác. Cũng không có dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẽ bị kiềm chế bởi cảm giác công bằng được mà luật quốc tế hay việc tôn trọng các chuẩn mực quốc tế mang lại.
Bảo Linh (National Interest)