Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam không đề cập đến khái niệm “Ngoại tình”. Đây chỉ là từ ngữ thường được sử dụng trong cuộc sống hằng ngày khi muốn nói đến mối quan hệ “ngoài luồng” của vợ, chồng với người thứ ba khi đã đăng ký kết hôn.
Một trong các hành vi bị cấm có liên quan đến ngoại tình được nêu tại điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình: Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
Theo đó, chỉ bị coi là chung sống với nhau như vợ chồng khi có các đặc điểm nêu tại khoản 3.1 Điều 3 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC:
- Đang có vợ hoặc có chồng mà chung sống với người khác hoặc chưa có vợ, có chồng mà chung sống với người mình biết rõ đang có chồng, có vợ.
- Việc chung sống diễn ra một cách công khai hoặc không công khai nhưng phải cùng sinh hoạt chung như một gia đình.
Trong đó, việc chung sống thường được chứng minh bằng các đặc điểm: Có con chung, được hàng xóm, xã hội coi như vợ chồng; có tài sản chung… và đã bị gia đình, đoàn thể, cơ quan giáo dục nhưng vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ đó.
Trường hợp ngoại tình chỉ bị phạt hành chính
Khoản 1 điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP năm 2020 quy định về Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng nêu rõ, phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
Người đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
Người đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
Người chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
Người kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
Người cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.
Do đó, đối với hành vi "sống chung với người khác như vợ chồng" mà chưa gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị xử phạt hành chính từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng với mục đích răn đe, cảnh cáo đối với người có hành vi vi phạm.
Ngoại tình đến mức nào thì bị đi tù?
Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định về tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng" tại Điều 182. Nội dung điều luật này:
"Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm.
Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:
Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó".
Như vậy, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng là hành vi vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Theo quy định nêu trên thì hành vi này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính lên đến 5 triệu đồng hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt tù lên đến 3 năm.