"1 triệu đồng tiền thật đổi 4, 5 hoặc 6 triệu đồng tiền giả, cam kết 99% giống tiền thật, được sản xuất bởi công nghệ Thái Lan" - đó là những lời quảng cáo trên các tài khoản Facebook rao bán tiền giả.
Ngày 27/1, trên Facebook có nickname Bích Ngọc rao: “Bên mình cho đổi 1 triệu tiền thật lấy 5 triệu tiền giả. Tiền giả giống tiền thật 98% làm từ polymer, có hình chìm, chỉ khác chỗ là các tờ tiền giả cùng mệnh giá có số sêri giống nhau, nếu xài 1 tờ thì chắc chắn không phát hiện, đổ xăng, đi chợ, mua hàng tạp hóa đều ok hết, chỉ có ra ngân hàng đối chiếu số sêri mới bị phát hiện thôi…”.
Một Facebook khác có tên Linh Tây cũng mời chào: “Mình còn ít tiền giả, anh em nhanh tay nhé. Được cái giống như thật, khác là trùng số sêri thôi, nếu tiêu từng tờ một thì không lo phát hiện. Anh em nào thích thì liên hệ mình nhé, 1 triệu tiền thật đổi được 5 triệu tiền giả, đặt cọc trước 1/3”.
Để tạo niềm tin, một số chủ nhân Facebook khác còn cho khách hàng số điện thoại liên hệ và cho biết nếu đổi nhiều sẽ được khuyến mãi, có người giao hàng tận nhà.
Các đối tượng ra bán tiền giả trên Facebook. Ảnh báo Vietnamnet |
Trước những thông tin đăng tải trên, nhiều người khẳng định đây chỉ là chiêu thức lừa đảo qua Facebook của một số đối tượng để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, có nhiều người nhẹ dạ cả tin đã dính vào những bẫy chiêu trò của những đối tượng xấu.
Theo luật sư Đặng Văn Cường - Trưởng văn phòng luật sư Chính Pháp - Đoàn luật sư TP Hà Nội, để xác định trách nhiệm pháp lý của các đối tượng rao bán tiền giả trên mạng xã hội thì cần phải điều tra xem có việc mua bán tiền giả không hay người bán chỉ đưa thông tin sai sự thật nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác.
Nếu có sự việc mua bán tiền giả xảy ra, thu giữ được vật chứng là tiền giả thì các đối tượng nêu trên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả theo Điều 180 Bộ luật hình sự:
“Điều 180. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả
1. Người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.
2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.
3. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Cũng theo quy định tại mục 3, phần I, Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự thì:
“3.2. Đối với tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (sau đây gọi chung là tiền giả):
a. Nếu tiền giả có trị giá tương ứng dưới mười triệu đồng tiền Việt Nam thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 180 Bộ luật Hình sự;
b. Nếu tiền giả có trị giá tương ứng từ mười triệu đồng đến dưới một trăm triệu đồng tiền Việt Nam thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 180 Bộ luật Hình sự;
c. Nếu tiền giả có trị giá tương ứng từ một trăm triệu đồng tiền Việt Nam trở lên thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 180 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên cần phân biệt:
- Nếu tiền giả có trị giá tương ứng từ một trăm triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng tiền Việt Nam là thuộc trường hợp rất nghiêm trọng;
- Nếu tiền giả có trị giá tương ứng từ một trăm năm mươi triệu đồng tiền Việt Nam trở lên là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng”.
Như vậy, hành vi tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả sẽ bị xử lý hình sự mà không cần phải phụ thuộc vào số lượng, giá trị tiền. Việc công khai mua bán tiền giả ngang nhiên trên mạng xã hội như vậy cần xử lý nghiêm để răn đe, phòng ngừa tội phạm.
Trong trường hợp, việc đổi tiền giả trên là một chiêu lừa đảo qua mạng của các đối tượng để nhằm mục đích làm cho người khác tin tưởng đưa tiền thật cho mình rồi sau đó bỏ trốn, thì các đối tượng đó có thể bị xử lý hình sự theo điều 139 Bộ luật hình sự về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Ngoài ra, nếu việc các đối tượng đưa ra thông tin đổi tiền thật lấy tiền giả không nhằm hai mục đích trên mà chỉ để đưa thông tin để lôi kéo sự chú ý của “cư dân mạng” thì các đối tượng có thể bị xử lý hình sự về tội “Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet” theo Điều 226 Bộ luật hình sự hoặc bị xử phạt hành chính theo Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện.
Thu Trang