Theo PLO và Dân Trí, trước năm 1975, cụ bà HTX (71 tuổi, ngụ phường Tân Mai, TP Biên Hòa, Đồng Nai) và cụ ông LBM (hơn bà hai tuổi) chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Quá trình sống chung hai cụ sinh được hai người con.
Sau năm 75, cụ M. đã sang Mỹ định cư nhưng vẫn thường xuyên thăm nom và gửi tiền về cho vợ con. Năm 2013, cụ M. vẫn về sinh hoạt với gia đình và lưu cư. Hai ông bà vẫn thường xuyên qua lại, còn cụ X. vẫn hỏi thăm, liên lạc với các chị em của cụ M. Dù không có giấy tờ chứng nhận kết hôn nhưng việc chung sống và tình cảm giữa cụ M. và cụ X. được hai bên gia đình nội ngoại thừa nhận.
Bất ngờ vào cuối năm 2016, cụ X. bất ngờ nộp đơn ra UBND phường Tân Mai, TP Biên Hòa đề nghị xác nhận tình trạng hôn nhân để làm thủ tục kết hôn.
Cụ bà U70 đang làm việc với chính quyền để xin giấy chứng nhận độc thân. Ảnh: Internet
Người cụ X. có ý định kết hôn là cụ DT (75 tuổi), ngụ thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ, TP.HCM. Quyết định bất ngờ trên của cụ X. vấp phải sự phản đối quyết liệt của hai người con vì họ cho rằng cụ đã có chồng, không nên đi bước nữa. Cũng không ai ngờ ý định này còn gây khó cho các cơ quan tư pháp trong việc xác nhận.
UBND phường Tân Mai đã cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho cụ X. với thông tin chưa từng đăng ký kết hôn với ai, kèm theo giấy xác nhận cụ chưa từng đăng ký kết hôn với ai, không xác lập quan hệ vợ chồng với ai.
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của cụ X. còn ghi rõ: “Giấy này có giá trị sử dụng trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày cấp. Giấy được sử dụng để làm thủ tục kết hôn với ông T. Nơi dự định kết hôn là UBND thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ, TP.HCM”.
Sau khi được UBND phường xác nhận, hai cụ T. và cụ X. đến nơi cư trú của cụ T. là UBND thị trấn Cần Thạnh làm thủ tục đăng ký kết hôn. Thế nhưng UBND chưa thể xét duyệt vì đang băn khoăn về xác nhận độc thân cho cụ X.
Sự việc từng gây xôn xao dư luận trong một thời gian dài. Ảnh: Internet
Tháng 11/2016, UBND thị trấn gửi công văn cho Phòng Tư pháp huyện Cần Giờ xin ý kiến nghiệp vụ và hướng giải quyết. Hơn một tháng sau phòng tư pháp huyện có thông báo gửi UBND thị trấn nhận định về vụ việc.
Theo phòng tư pháp huyện, việc cụ X. kết hôn với cụ T. là vi phạm điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình. Bởi cụ X. thuộc trường hợp là người đang có chồng, được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01-2016 giữa TAND Tối cao, VKSND Tối cao và Bộ Tư pháp (hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình). Cụ thể, trước ngày 3-1-1987, cụ X. đã chung sống như vợ chồng với cụ M. và có hai con chung.
Đại diện Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai cho biết đây là vụ việc có tính chất phức tạp vì xung đột nhận thức khi áp dụng quy định pháp luật.
Tuy nhiên, đến thời điểm này Sở chưa khẳng định được việc UBND phường Tân Mai cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho cụ X. là đúng hay sai. “Do đây là vụ việc phức tạp nên cơ quan này đã gửi công văn cho Bộ Tư pháp thỉnh thị nghiệp vụ. Khi nào có ý kiến của Bộ Tư pháp, Sở sẽ đưa ra nhận định về việc xác nhận tình trạng hôn nhân của UBND phường Tân Mai, TP Biên Hòa cho cụ X. là đúng hay sai” - đại diện Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai nói.
Trong khi đó, Trưởng phòng Hộ tịch - Quốc tịch (Sở Tư pháp TP.HCM) Nguyễn Triều Lưu khẳng định Phòng Tư pháp huyện Cần Giờ trả lời, hướng dẫn như trên là đúng.
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01-2016 nêu trên thì người đang có vợ hoặc có chồng (theo điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật Hôn nhân và Gia đình) là người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 3-1-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết.
Trong khi điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: Cấm hành vi người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
Như vậy cụ X. chung sống như vợ chồng với cụ M. trước mốc thời điểm trên và có con chung nên thuộc trường hợp người đang có chồng.