Chiều 17/11, tại Hà Nội, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh của Bộ Y tế, tổ chức tập huấn triển khai Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh béo phì với sự tham gia trực tiếp và trực tuyến của 500 bác sĩ thuộc các bệnh viện, sở y tế trên cả nước.
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh béo phì ban hành theo Quyết định số 2892/QĐ-BYT ngày 22/10/2022 được áp dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên cả nước.
Các nội dung chính của hướng dẫn tập trung vào các nguyên nhân gây nên bệnh béo phì; chẩn đoán thừa cân, béo phì; xác định các dạng béo phì; các nguyên tắc chung trong điều trị béo phì và hướng dẫn điều trị bằng dinh dưỡng, vận động, tâm lý, thuốc và điều trị phẫu thuật trong béo phì.
Đây là lần đầu tiên Bộ Y tế ban hành hướng dẫn riêng về chẩn đoán, điều trị bệnh béo phì. Theo Bộ Y tế, béo phì là tình trạng tích tụ mỡ thừa hoặc bất thường, có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Ở nhiều nước trên thế giới, tình trạng béo phì ngày càng gia tăng, đặc biệt trong 10 năm trở lại đây.
Tại Việt Nam, tỉ lệ béo phì gia tăng nhanh, từ 2,6% năm 2010 lên đến 3,6% năm 2014, tương đương với tốc độ tăng là 38%. Một thống kê tại Việt Nam 2021 cho kết quả tỉ lệ thừa cân, béo phì ở Hà Nội và Tp. HCM chiếm 18% tổng số người thừa cân, béo phì trên toàn quốc.
Đặc biệt ở lứa tuổi học đường từ 5-19 tuổi, tình trạng béo phì tăng rất nhanh. Năm 2010, tỉ lệ này là 8.5% đã tăng lên 19% vào năm 2020, trong đó tỉ lệ thừa cân béo phì khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.
"Béo phì được Tổ chức Y tế thế giới và Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ công nhận là bệnh mạn tính đòi hỏi phải quản lý và điều trị lâu dài, bởi béo phì gây ra rất nhiều biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân", GS.TS Trần Hữu Dàng, Chủ tịch Hội Nội tiết - Đái tháo đường Việt Nam cho biết.
Béo phì có tác động bất lợi lên tất cả các vấn đề sức khỏe, làm giảm thời gian sống, gây ra nhiều bệnh lý mạn tính như đái tháo đường, bệnh lý tim mạch, tăng lipid máu, hội chứng ngưng thở lúc ngủ, thoái hóa khớp, gan nhiễm mỡ… làm giảm chất lượng cuộc sống. Những biện pháp dự phòng, điều trị thừa cân, béo phì và duy trì thực hiện việc kiểm soát cân nặng lâu dài có thể cải thiện tình trạng sức khỏe, giảm biến chứng cho người bệnh.
Một trong những vấn đề được quan tâm đó là việc lựa chọn các phương pháp phù hợp trong điều trị béo phì, hướng đến từng cá thể. Tuy nhiên, một trong những thách thức hiện nay đó là theo dõi, điều trị béo phì thông qua dinh dưỡng.
Theo Trưởng Khoa Dinh dưỡng lâm sàng và Tiết chế, Viện Dinh dưỡng Quốc gia Nghiêm Nguyệt Thu, cũng cho hay, các bệnh nhân béo phì ngày càng tăng.
Rất nhiều người đặt mục tiêu giảm 4-5kg một tháng, nhưng có giảm được cũng khó bền vững, rất nhanh chóng bị béo lại. Mục tiêu giảm cân được đặt ra không gây áp lực khiến người béo phì nhịn ăn, tập luyện đến ngất xỉu. Mục tiêu Giảm cân được đặt ra từ 5-15% trong khoảng thời gian 6 tháng là thực tế và đã được chứng minh mang lại lợi ích sức khỏe.
Việc can thiệp lối sống là nền tảng đảm bảo duy trì giảm cân bền vững, an toàn bao gồm các biện pháp can thiệp dinh dưỡng, tập luyện thể lực, thay đổi hành vi, hỗ trợ tâm lý.
Việc điều trị bằng thuốc chỉ được áp dụng sau khi can thiệp lối sống trong 3 tháng không giúp giảm được 5% cân nặng, người bệnh có BMI ≥ 25 kg/m2.
Còn phương pháp phẫu thuật giảm cân chỉ được chỉ định với những trường hợp có BMI ≥ 35 kg/m2 hay BMI≥ 30 kg/m2 kèm bệnh lý đồng mắc liên quan béo phì, đã áp dụng các biện pháp khác nhưng không hiệu quả.
"Thách thức đối với phương pháp điều trị dinh dưỡng chính là giúp cho bệnh nhân phải thay đổi hành vi... Luyện tập nhiều đến mấy cũng không thể lại với ăn uống quá nhiều", TS. BS Nghiêm Nguyệt Thu chia sẻ.
Chuyên gia khuyến cáo, hãy ăn nhiều rau xanh luộc, các loại trái cây ít ngọt, chọn gạo lứt, khoai lang... thay vì ăn nhiều gạo trắng. Tập thể dục vài tiếng một ngày cũng không thể giảm nếu không kiểm soát ăn uống. Cần đảm bảo, năng lượng nạp vào ít hơn năng lượng tiêu hao. Bên cạnh đó, duy trì vận động từ 30-60 phút mỗi ngày...