Trong dân gian thường thấy người ta thường dùng lá cây đinh lăng để ăn với gỏi hoặc dùng kho cá, sắc nước uống, tuy nhiên bộ phận dùng đúng là rễ đã phơi hay sấy khô.
Vỏ rễ và lá đinh lăng chứa saponin, alcoloid, các vitamin B1, B2, B6, vitamin C, 20 acid amin, glycocid, alcaloid, phytosterol, tanin, acid hữu cơ, tinh dầu, nhiều nguyên tố vi lượng và 21,10% đường. Trong lá còn có saponin triterpen (1,65%), một genin đã xác định được là acid oleanolic.
Rễ đinh lăng thường được thu hoạch vào mùa thu đông sau khi cây trồng trên 5 năm, vào mùa này rễ cây mềm và chứa nhiều hoạt chất. Đào lấy rễ, rửa sạch, bóc lấy vỏ rễ, thái lát, phơi khô ở chỗ mát để giữ nguyên tinh chất. Sau khi phơi khô, rễ cong queo, thường được thái thành các lát mỏng.
Trung tâm Sâm và Dược liệu thành phố Hồ Chí Minh thuộc Viện Dược Liệu đã phân lập được 5 hợp chất trong lá và rễ đinh lăng, nhưng chỉ có 3 hợp chất có tác dụng kháng khuẩn mạnh và chống một số dạng ung thư.
Tác dụng cây đinh lăng:
Theo Y học cổ truyền, vị thuốc đinh lăng dùng làm thuốc bổ, trị suy nhược cơ thể, tiêu hoá kém, phụ nữ sau khi đẻ ít sữa, sản hậu huyết xông nhức mỏi. Dùng làm thuốc chữa ho, ho ra máu, thông tiểu tiện, chữa kiết lỵ.
Thân và cành dùng chữa phong thấp, đau lưng.
Lá chữa cảm sốt, mụn nhọt sưng tấy, sưng vú, dị ứng mẩn ngứa, vết thương (giã đắp). Thân và cành chữa thấp khớp, đau lưng.
Rễ của cây đinh lăng được dùng làm thuốc bổ tăng lực, chữa cơ thể suy nhược, gầy yếu, mệt mỏi, tiêu hoá kém, phụ nữa sau sinh ít sữa. Có nơi còn dùng chữa ho, ho ra máu, đau tử cung, kiết lỵ và làm thuốc lợi tiểu, chống độc.
Các nghiên cho thấy bột rễ hay dịch chất rễ đinh lăng có khả năng làm tăng sức chịu đựng của cơ thể con người trong điều kiện nóng ẩm, tốt hơn Vitamin C và chè giải nhiệt. Đó là tác dụng làm tăng lực của Cây thuốc này.
Lưu ý: Mặc dù đây là một loại dược liệu ít độc nhưng nếu bạn lạm dụng sử dụng quá mức, vẫn có thể gây ngộ độc. Dễ thấy nhất là xung huyết ở gan, tim, phổi, dạ dày, ruột, biến loạn dinh dưỡng.
Trong rễ cây đinh lăng lại có chứa nhiều saponin. Loại chất này có thể làm vỡ hồng cầu. Vì vậy, chúng ta chỉ nên dùng khi cần thiết và dùng đúng liều, đúng cách.