Tần Thủy Hoàng tự nhận mình là một trong những vị vua vĩ đại nhất sau khi tiêu diệt 6 nước chư hầu và thành lập nên đế quốc Tần với lãnh thổ trải rộng khắp Trung Hoa.
Tự xưng là hoàng đế và mải mê theo đuổi sự bất tử nhưng Tần Thủy Hoàng vẫn không quên chuẩn bị cho cái chết của mình và đây cũng là lý do lăng mộ của Tần Thủy Hoàng là khu lăng mộ vĩ đại nhất trong lịch sử.
Ngay từ khi mới lên ngôi, Tần Thủy Hoàng đã nghĩ đến việc xây dựng lăng mộ cho mình. Quá trình xây dựng lăng mộ trên núi Ly Sơn (Thiểm Tây, Trung Quốc) cho Tần Thủy Hoàng kéo dài 38 năm (246 -208 TCN).
Theo như những gì được ghi chép lại trong Sử ký của Tư Mã Thiên, đã có đến 70 vạn nhân lực được huy động để xây dựng cho công trình này.
Ngày nay, các nhà khảo cổ chỉ mới khám phá được lớp bên ngoài của lăng mộ Tần Thủy Hoàng và việc tiến sâu vào khu lăng mộ này rất khó do khối lượng đất đá phải vận chuyển vô cùng lớn và có nguy cơ cổ vật bên trong bị hủy hoại.
Những bảo vật và châu báu bên trong lăng mộ của Tần Thủy Hoàng cũng là thứ mà bất kỳ tên trộm mộ nào cũng sẽ ao ước. Tuy nhiên có một điều mà nhiều người chưa biết đó dù sở hữu cho mình khu lăng mộ xa hoa bậc nhất nhưng chính vị hoàng đế này lại từng khao khát sở hữu bảo vật ở một ngôi mộ khác.
Trong cuốn sách Nguyên Hòa Quận Huyện Chí của nhà sử học, tể tướng thời Đường có tên Lý Cát Phủ chép, năm 219 TCN, Tần Thủy Hoàng đã đến Tô Châu (tỉnh Giang Tô ngày nay) và lệnh cho quân lính ra sức đào mộ của Ngô Hạp Lư để tìm bảo kiếm.
Ngô Hạp Lư là vua đời thứ 24 của nước Ngô và được xếp vào nhóm Ngũ Bá thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Hoa.
'Thủy Hoàng sai người đào núi tìm mộ Hạp Lư, nhưng đào mãi không thấy đành phải quay về', Lý Cát Phủ ghi chép lại.
Theo như những gì được Đông Chu liệt quốc ghi lại, sau khi Hạp Lư băng hà, thi thể ông được chôn bên dưới lăng mộ cùng 3.000 thanh bảo kiếm trong đó có một số thanh 'thần kiếm' được cho có một không hai và đây cũng là thứ mà Tần Thủy Hoàng ngày đêm mơ tưởng.
Lịch sử cũng ghi chép lại cho thấy Hạp Lư là vị vua yêu kiếm và sự nghiệp của ông cũng gắn liền với những thanh kiếm.
Vua Hạp Lư (514 TCN - 496 TCN) có tên thật là Cơ Quang, là vua đời thứ 24 của nước Ngô. Ông có 2 trọng thần là Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ đều nổi tiếng trong sử sách về tài năng. Trong đó, Tôn Vũ được xem là nhà quân sư kiệt xuất và là tác giả của cuốn Binh pháp Tôn Tử nổi tiếng trên thế giới.
Hạp Lư cũng là vị vua sở hữu 2 thanh bảo kiếm nổi tiếng bậc nhất thế giới là Ngư Trường và Mạc Tà khi mỗi thanh kiếm đều giúp ông tiến thêm một bậc trên con đường trở thành bá chủ.
Lại nói về hai thanh kiếm được coi là 'kiếm thần' này, trong sách Ngô Việt xuân thu phần Hạp Lư nội truyện có ghi lại cho thấy vị vua này đã thu dụng thợ rèn giỏi trong dân gian và đúc ra 3.000 thanh kiếm tốt, đều đặt tên là Biển Chư (có thuyết nói thanh tốt nhất trong số kiếm này mới được gọi là Biển Chư), cất làm của riêng. Hạp Lư lại tìm được một người nước Ngô tên Can Tương – học trò giỏi nhất của Âu Dã Tử – sai đúc kiếm báu.
Theo như tương truyền, Can Tương đã chọn ngày giờ tốt, đốt lò ngày đêm suốt 3 tháng ròng rã mà vàng, sắt, đồng đều không bị nung chảy. Người vợ có tên Mạc Tà đã nhảy vào lò lửa để tế và Can Tương bấy giờ mới luyện được thành 2 thanh kiếm quý và người đời sau đặt tên cho kiếm là Mạc Tà và Can Tương.
Tuy nhiên, Can Tương chỉ dâng cho Hạp Lư thanh Mạc Tà mà giấu kiếm Can Tương đi. Hạp Lư chưa biết chỉ cầm thử kiếm chém thử vào tảng đá lớn thì tảng đá liền vỡ là đôi, y mừng rỡ và thưởng cho Can Tương 100 nén vàng.
Sau khi có được kiếm Mạc Tà, Hạp Lư đánh đâu thắng đó và từng bước mở rộng lãnh thổ nước Ngô, chèn ép 2 nước lớn xung quanh là Việt và Sở.
Những gì được Đông Chu liệt quốc ghi lại cho thấy năm 512 TCN, Hạp Lư cùng 2 trọng thần là Ngữ Tử Tư, Tôn Vũ cất quân đánh Sở.
Năm 506, quân Ngô đánh thắng liên tục 5 trận lớn và Hạp Lư tiến thẳng vào kinh đô nước Sở là Sính Đô.
Sau khi tiêu diệt nước Sở, Hạp Lư được xem vào hàng 'bá chủ' thời xuân thu. Năm 496 Hạp Lư băng hà, truyền ngôi cho Phù Sai. Thi thể của ông sau đó được chôn cùng 3.000 thanh bảo kiếm dưới đáy một hồ nước lớn ở chân núi Hổ Khâu, Tô Châu, người dân gọi hồ nước này là Hồ Kiếm.
Không chỉ Tần Thủy Hoàng mà hàng nghìn năm qua, có rất nhiều người có ý định đào mộ Hạp Lư để tìm kiếm kho báu nhưng đều phải ra về tay trắng.
Một trong những nguyên nhân khách quan là do nước tại Hồ Kiếm không bao giờ cạn nên việc lặn xuống và đào mộ Hạp Lư là điều bất khả thi. Ngoài ra qua năm tháng thì dấu tích về ngôi mộ của Hạp Lư dưới đáy hồ cũng bị xóa sạch khiến cho việc tìm kiếm càng trở nên khó khăn.