Tin mới

6 hồ nước nổi tiếng thế giới đang 'chết dần' vì khô cạn do biến đổi khí hậu

Thứ sáu, 29/12/2023, 15:08 (GMT+7)

Những chiếc hồ lớn nhất Trái đất đang trong quá trình cạn kiệt do biến đổi khí hậu và cường độ hoạt động ngày càng tăng của con người.

6. Hồ Poopó

Hồ Poopo, Bolivia.
Hồ Poopo, Bolivia.

Hồ Poopó nằm ở phía tây trung tâm Bolivia, chiếm một vùng trũng nông ở Altiplano, hay “Cao nguyên”, ở độ cao 12.090 feet (3.686 mét) so với mực nước biển. Trong lịch sử, Hồ Poopó là hồ lớn thứ hai đất nước, có diện tích 977 dặm vuông (2.530 km vuông) ở mực nước thấp, dài khoảng 56 dặm (90 km) và rộng 20 dặm (32 km) mặc dù chỉ rộng 8–10 feet. (2,4–3 mét) sâu. Tuy nhiên, đến tháng 12 năm 2015, hồ đã cạn kiệt hoàn toàn do hạn hán trầm trọng hơn do biến đổi khí hậu, sự tích tụ trầm tích do ngành khai thác mỏ địa phương gây ra và El Niño mạnh hơn bình thường khiến nhiệt độ mặt nước biển trên mức trung bình.

Hồ Poopó là một hồ nội lưu, có nghĩa là nó không có dòng nước chảy ra ngoài ngoại trừ sự bốc hơi và thấm từ mặt đất, và nó nhận phần lớn nước từ lượng mưa trong mùa mưa và từ sông Desaguadero. Việc tưới tiêu cho các ngành nông nghiệp địa phương và nhu cầu nước từ khai thác mỏ đã khiến phần lớn sông Desaguadero chảy vào hồ, khiến mực nước hồ giảm đáng kể. Tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu cũng góp phần khiến hồ bị suy giảm, khiến tốc độ bốc hơi của hồ tăng gấp ba lần kể từ những năm 1990 và rút ngắn mùa mưa.

Sự kết hợp của các yếu tố này đã gây ra hậu quả thảm khốc cho hơn 200 loài trong khu vực, cũng như đối với Urus-Muratos, một cộng đồng bản địa có sinh kế phụ thuộc vào hồ. Ngoài ra, sự biến mất của Hồ Poopó đã buộc phải di dời các khu định cư xung quanh bờ hồ, nơi trước đây bị biến thành đầm lầy do quá trình lọc nước vào lòng hồ.

5. Biển Aral

Sự thu hẹp của Biển Aral, 1960–2014. Ảnh: Adapted from Philip Micklin, Western Michigan University
Sự thu hẹp của Biển Aral, 1960–2014. Ảnh: Adapted from Philip Micklin, Western Michigan University

Trước đây là vùng nước nội địa lớn thứ tư thế giới, Biển Aral là một hồ nước mặn lớn một thời còn được gọi là Biển Orol, Aral Tengizi hoặc Orol Dengizi. Tàn tích của hồ nằm ở trung tâm Trung Á, phía đông Biển Caspian.

Cho đến những năm 1960, các yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến cân bằng nước của Biển Aral là lượng nước do sông mang vào và lượng nước mất đi do bốc hơi; hai yếu tố này gần như nhau nên tạo ra mực nước ổn định. Năm 1960, bề mặt Biển Aral nằm ở độ cao 175 feet (53 mét) so với mực nước biển và có diện tích khoảng 26.300 dặm vuông (68.000 km vuông). Phạm vi lớn nhất của Biển Aral từ bắc tới nam là gần 270 dặm (435 km), trong khi từ đông sang tây chỉ hơn 180 dặm (290 km). Mặc dù độ sâu trung bình tương đối nông khoảng 53 feet (16 mét) hoặc hơn, nhưng nó hạ xuống tối đa 226 feet (69 mét) ngoài khơi bờ biển phía tây.

Biển Aral và sự tàn lụi của nó bắt đầu vào nửa sau thế kỷ 20 do các Chính sách kinh tế của Liên Xô chuyển hướng dòng nước để tưới tiêu. Việc thực hành này tiếp tục kéo dài sang thế kỷ 21, khiến diện tích và thể tích của nó bị thu hẹp đáng kể, điều này thu hút sự chú ý và quan tâm của các nhà khoa học. Cụ thể, sự thay đổi bao gồm việc chuyển dòng nước của sông Syr Darya (sông Jaxartes cổ) ở phía bắc và Amu Darya (sông Oxus cổ) ở phía nam. Hai con sông này là nguồn cung cấp nước chính cho biển Aral.

Sự co rút nhanh chóng đã dẫn đến nhiều vấn đề môi trường trong khu vực. Vào cuối những năm 1980, lượng nước trong hồ đã giảm hơn một nửa so với mức trước năm 1960. Kết quả là, muối và khoáng chất trong hồ trở nên đậm đặc hơn, khiến nước không còn phù hợp để uống và giết chết các quần thể cá từng dồi dào, bao gồm cá tầm, cá chép, cá chẽm và cá rô. Ngành đánh cá ở biển Aral sụp đổ. Trong vòng hai thập kỷ tiếp theo, Biển Aral tách thành Biển Aral phía Bắc (Nhỏ hơn) và Biển Aral phía Nam (Greater), và đến năm 2001, Biển Aral Nam đã tách thành thùy phía đông và thùy phía tây. Đến năm 2014, thùy phía đông đã biến mất hoàn toàn do hạn hán kéo dài từ năm 2005 đến 2009 cùng với những năm khô hạn và ẩm ướt biến động trong thập kỷ sau đó.

Biển Aral hiện bao gồm một phần của Kazakhstan và Uzbekistan. Kazakhstan, với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, đã xây dựng Đập Kok-Aral để ổn định Biển Bắc Aral, nằm hoàn toàn trong biên giới của nước này. Khi làm như vậy, phần phía bắc và các ngành công nghiệp trong khu vực đang bắt đầu phục hồi. Tuy nhiên, phần lớn lưu vực biển Aral nằm ở Uzbekistan, nơi có ít nỗ lực phục hồi hơn.

4. Hồ Mead

Ảnh hiển thị ảnh vệ tinh của Hồ Mead từ năm 2000 (Landsat 7), 2016 (Landsat 8) và 2022 (Landsat 8) cho thấy mực nước đang giảm dần. (Đập Hoover, Colorado, biến đổi khí hậu, môi trường). Ba hình ảnh của Hồ Mead được chụp vào năm 2000, 2016 và 2022 với các đặc điểm địa lý được gắn nhãn, bao gồm Đập Hoover, Overton Arm và Sông Virgin. Ảnh: U.S. Geological Survey Landsat data—NASA Earth Observatory; (left, right) Lauren Dauphin, (center) Joshua Stevens
Ảnh hiển thị ảnh vệ tinh của Hồ Mead từ năm 2000 (Landsat 7), 2016 (Landsat 8) và 2022 (Landsat 8) cho thấy mực nước đang giảm dần. (Đập Hoover, Colorado, biến đổi khí hậu, môi trường). Ba hình ảnh của Hồ Mead được chụp vào năm 2000, 2016 và 2022 với các đặc điểm địa lý được gắn nhãn, bao gồm Đập Hoover, Overton Arm và Sông Virgin. Ảnh: U.S. Geological Survey Landsat data—NASA Earth Observatory; (left, right) Lauren Dauphin, (center) Joshua Stevens
Hình ảnh Đập Hoover. Ảnh: Marli Miller—UCG/Universal Images Group/Getty Images
Hình ảnh Đập Hoover. Ảnh: Marli Miller—UCG/Universal Images Group/Getty Images

Là một trong những hồ nhân tạo lớn nhất thế giới, Hồ Mead là hồ chứa của Đập Hoover, trên biên giới Arizona-Nevada, cách Las Vegas 25 dặm (40 km) về phía đông. Được hình thành nhờ việc xây đập của sông Colorado, Hồ Mead trải dài 115 dặm (185 km) về phía thượng nguồn, rộng từ 1 đến 10 dặm (1,6 đến 16 km) và có dung tích 31.047.000 mẫu Anh (38.296.200.000 mét khối). Hồ có 550 dặm (885 km) bờ biển và diện tích bề mặt là 229 dặm vuông (593 km vuông). Nó được đặt theo tên Elwood Mead, ủy viên Cục Khai hoang Hoa Kỳ (1924–36). Do hạn hán kéo dài nhiều năm ở Tây Nam nước Mỹ vào đầu thế kỷ 21, các vệ tinh tiết lộ rằng mực nước hồ đã giảm khoảng 120 feet (37 mét) từ năm 2000 đến năm 2015. Trong lịch sử gần đây, hồ Mead chỉ gần đầy nước hai lần, vào mùa hè năm 1983 và 1999.

Hồ Mead phục vụ 25.000.000 người trên bảy tiểu bang và cung cấp nước cho một số trung tâm nông nghiệp lớn nhất của Hoa Kỳ, đặc biệt là những trung tâm ở Tây Nam. Nhu cầu rất lớn thúc đẩy nhu cầu về các thỏa thuận giữa các bang về bảo tồn và phân phối nguồn cung cấp nước đang bị thu hẹp của hồ chứa. Kể từ năm 2023, Cục Khai hoang Hoa Kỳ đã yêu cầu cắt giảm để tiết kiệm nước và phát triển Thỏa thuận sông Colorado, một thỏa thuận đột phá

3. Hồ Tchad

Hai bức ảnh về Hồ Chad chụp năm 1973 và 2017 cho thấy lượng nước mất đi đáng kể theo thời gian.. Sự thu hẹp của Hồ Chad được thể hiện trong những hình ảnh do vệ tinh Landsat-(trên cùng) Landsat 1 năm 1973 và Landsat 8 năm 2017 thu được. Sự kết hợp giữa ánh sáng nhìn thấy và tia hồng ngoại giúp phân biệt rõ hơn giữa thảm thực vật (màu đỏ) và nước (màu xanh và màu xám đá phiến). (Sahel, Châu Phi, biến đổi khí hậu). Ảnh: Dữ liệu vệ tinh Landsat của Đài quan sát Trái đất của NASA/Hoa Kỳ Khảo sát địa chất/NASA/JSC
Hai bức ảnh về Hồ Chad chụp năm 1973 và 2017 cho thấy lượng nước mất đi đáng kể theo thời gian.. Sự thu hẹp của Hồ Chad được thể hiện trong những hình ảnh do vệ tinh Landsat-(trên cùng) Landsat 1 năm 1973 và Landsat 8 năm 2017 thu được. Sự kết hợp giữa ánh sáng nhìn thấy và tia hồng ngoại giúp phân biệt rõ hơn giữa thảm thực vật (màu đỏ) và nước (màu xanh và màu xám đá phiến). (Sahel, Châu Phi, biến đổi khí hậu). Ảnh: Dữ liệu vệ tinh Landsat của Đài quan sát Trái đất của NASA/Hoa Kỳ Khảo sát địa chất/NASA/JSC

Hồ Chad là một hồ nước ngọt ở vùng Sahelian phía tây trung tâm châu Phi, nơi giao nhau của Tchad, Cameroon, Nigeria và Niger. Nó nằm trong một lưu vực nội địa từng bị chiếm giữ bởi một vùng biển cổ đại lớn hơn nhiều. Trong lịch sử, hồ được xếp hạng là một trong những hồ lớn nhất ở châu Phi, mặc dù diện tích bề mặt của nó thay đổi rất nhiều theo mùa cũng như từ năm này sang năm khác. Khi bề mặt hồ cao khoảng 920 feet (280 mét) so với mực nước biển, diện tích là khoảng 6.875 dặm vuông (17.800 km vuông). Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 21, diện tích này thường khoảng 580 dặm vuông (1.500 km vuông).

Diện tích bề mặt của Hồ Chad thường đạt mức tối đa vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11 trước khi giảm hơn một nửa vào cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5. Thể tích của hồ phản ánh lượng mưa cục bộ và lưu lượng của khu vực lưu vực, cân bằng với tổn thất do bốc hơi, thoát hơi nước và thấm. Hồ chủ yếu được cấp nước bởi hệ thống sông Chari (Shari)-Logone, chiếm khoảng 4/5 lượng dòng chảy vào. Phần lớn dòng chảy vào còn lại được đóng góp bởi sông Ebeji (El-Béid) và Yedseram. Đôi khi, khi hồ có diện tích bề mặt lớn hơn, nó có thể được chia thành hai hồ được ngăn cách một phần bởi một sườn núi thấp kéo dài gần như theo hướng đông bắc-tây nam qua trung tâm hồ. Dãy núi này được hình thành trong một đợt hạn hán vào đầu thế kỷ 20, và có lúc nó đã chia cắt hoàn toàn các lưu vực. Tuy nhiên, kể từ những năm 1960, hồ Chad đã bị thu hẹp khoảng 90% do sự thay đổi về khí hậu và lượng nước bị rút khỏi hệ thống tưới tiêu. (Nhóm khủng bố bạo lực Boko Haram cũng đã cản trở các nỗ lực phục hồi.) Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy rằng lượng nước ngầm gia tăng gần đây đã ngăn cản hồ Chad biến mất hoàn toàn và sẽ cần phải được kết hợp với các chiến lược bảo tồn nước.

2. Hồ Urmia

Những cột gỗ với muối kết tinh trên hồ muối Urmia. nó là hồ lớn nhất ở Trung Đông, hiện đang trên bờ vực tuyệt chủng. Iran Hồ Urmia. Ảnh: Elena Odareeva—iStock/Getty Images
Những cột gỗ với muối kết tinh trên hồ muối Urmia. nó là hồ lớn nhất ở Trung Đông, hiện đang trên bờ vực tuyệt chủng. Iran Hồ Urmia. Ảnh: Elena Odareeva—iStock/Getty Images

Hồ Urmia của Iran, hay Daryācheh-ye Orūmīyeh, nằm ở góc tây bắc của đất nước. Đây là một trong những hồ lớn nhất ở Trung Đông và có diện tích lịch sử từ 2.000 đến 2.300 dặm vuông (5.200 đến 6.000 km vuông). Hồ nằm dưới đáy vùng trũng trung tâm rộng lớn của khu vực Azerbaijan ở tây bắc Iran, ở độ cao 4.183 feet (1.275 mét) so với mực nước biển. Lưu vực được bao quanh bởi các dãy núi ở phía tây và phía bắc, bởi các cao nguyên ở phía nam và các cao nguyên và nón núi lửa ở phía đông. Ở mức tối đa, trong những năm 1970, hồ dài khoảng 87 dặm (140 km) và rộng 25–35 dặm (40–55 km), với độ sâu tối đa 53 feet (16 mét). Vì nước ở hồ Urmia không có lối thoát nên chúng có độ mặn cao. Hồ có độ mặn bằng 1/4 Biển Chết; hàm lượng muối của nó dao động từ 8–11% vào mùa xuân đến 26–28% vào cuối mùa thu. Các muối chính là clo, natri và sunfat.

Kể từ năm 1967, Hồ Urmia được hưởng quy chế là vùng đất ngập nước được bảo vệ và chính phủ Iran đã nỗ lực bảo tồn và khôi phục động vật hoang dã ở đây. Tuy nhiên, diện tích bề mặt của Hồ Urmia đã giảm khoảng 90% kể từ năm 1995, xuống còn khoảng 230 dặm vuông (600 km vuông)—nghĩa là chỉ còn khoảng 5% thể tích lịch sử của nó. Sự mất mát diện tích này bắt nguồn từ việc xây đập ngăn các con sông chảy vào hồ, tăng lượng nước tưới tiêu và quản lý nước yếu kém. Vào năm 2013, Hassan Rouhani đã đặt cược việc ứng cử tổng thống của mình vào việc khôi phục Hồ Urmia, và những nỗ lực đó đã bắt đầu ngay sau khi ông bắt đầu nhiệm kỳ. Hợp tác với Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc và chính phủ Nhật Bản, các sáng kiến của chính phủ Iran đã tạo ra thành công tạm thời khi chính phủ nỗ lực đạt được mục tiêu khôi phục mực nước lên 4.180 feet (1.274 mét) và giảm 40% lượng nước tiêu thụ từ các hoạt động của con người. .

1. Biển Chết

Đường bờ biển Chết, phía đông Israel. Ảnh: Shawn McCullars
Đường bờ biển Chết, phía đông Israel. Ảnh: Shawn McCullars

Biển Chết, còn được gọi là Biển Muối, là một hồ nước mặn nằm giữa Israel và Jordan ở Tây Nam Á. Bờ phía đông của nó thuộc về Jordan và nửa phía nam của bờ phía tây thuộc về Israel. Nửa phía bắc của bờ biển phía tây nằm trong Bờ Tây của người Palestine và nằm dưới sự chiếm đóng của Israel kể từ cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1967. Sông Jordan, nơi nhận gần như toàn bộ lượng nước của Biển Chết, chảy vào từ phía bắc.

Biển Chết có độ cao thấp nhất và là vùng nước thấp nhất trên bề mặt Trái đất. Trong nhiều thập kỷ vào giữa thế kỷ 20, giá trị tiêu chuẩn được đưa ra cho mực nước mặt hồ là khoảng 1.300 feet (400 mét) dưới mực nước biển. Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm 1960, Israel và Jordan bắt đầu chuyển hướng phần lớn dòng chảy của sông Jordan và tăng cường sử dụng nước hồ cho mục đích thương mại. Kết quả của những hoạt động đó là mực nước Biển Chết giảm mạnh. Vào giữa những năm 2010, mực nước hồ thấp hơn 100 feet (khoảng 30 mét) so với con số giữa thế kỷ 20—tức là khoảng 1.410 feet (430 mét) dưới mực nước biển—và hồ tiếp tục giảm khoảng 3 feet (1 mét) hàng năm. Hiện tại, mực nước Biển Chết đang giảm khoảng 1,2 mét mỗi năm, điều này cũng làm tăng độ mặn của hồ.

Mối lo ngại ngày càng gia tăng về mực nước Biển Chết tiếp tục giảm, thúc đẩy các nghiên cứu và kêu gọi bảo tồn nhiều hơn tài nguyên nước của Sông Jordan. Ngoài việc xem xét các đề xuất giảm lượng nước sông do Israel và Jordan chuyển hướng, hai nước còn thảo luận về ý tưởng xây dựng các kênh đào để đưa thêm nước vào Biển Chết. Một dự án như vậy đã nhận được sự chấp thuận của cả hai bên vào năm 2015, liên quan đến việc xây dựng một con kênh chạy về phía bắc từ Biển Đỏ. Kế hoạch này cũng bao gồm việc xây dựng các nhà máy khử muối và thủy điện dọc theo kênh đào, dự kiến sẽ cung cấp một lượng lớn nước muối (sản phẩm phụ của quá trình khử muối) cho hồ. Tuy nhiên, dự án đã vấp phải sự hoài nghi và phản đối của các nhà bảo vệ môi trường và những người khác, những người đặt câu hỏi về tác hại tiềm tàng của việc trộn nước từ hai nguồn. Vào năm 2022, Ý định chung đã đạt được giữa Israel và Jordan, hứa hẹn hợp tác song phương nhằm loại bỏ ô nhiễm và tăng cường xả nước ngọt từ sông Jordan vào Biển Chết.

 

Theo dõi Tinmoi.vn trên Tinmoi.vn - Google news