Nền kinh tế Trung Quốc chắc chắn đóng vai trò trong việc giá dầu giảm ngoạn mục. Tuy nhiên, Bắc Kinh có thể hưởng lợi từ điều này theo nhiều cách.
Giá dầu giảm mạnh đã gây chấn động trên toàn thế giới, đe dọa làm lung lay các chính quyền và làm phá sản các doanh nghiệm ngay cả khi người tiêu dùng Mỹ đang ăn mừng xăng giá rẻ.
Tuy nhiên, trong khi nguồn cung tăng lên phần lớn bị đổ lỗ là do giá cả giảm, thì nhu cầu tăng trưởng thấp hơn tại Trung Quốc và những tác động lâu dài của nó đối với nền kinh tế toàn cầu lại đang bị bỏ qua. Bắc Kinh liệu được hay mất từ Giá dầu rẻ?
Vào ngày 17/1, giá dầu chuẩn của Mỹ đã giảm xuống dưới 48 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 4/2009 và chỉ bằng một nửa so với giá cả cách đây 5 tháng. Sự sụt giảm đến ngay sau quyết định của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) hồi tháng 11, không hạn chế sản xuất, bất chấp sự mất ổn định trong nguồn cung đá phiến sét của Mỹ và nhu cầu suy yếu tại châu Á và châu Âu.
Vai trò của Trung Quốc trong sự tăng và giảm giá dầu phản ánh sự tái xuất hiện của Bắc Kinh trên trường quốc tế. Trong thập kỷ qua, tốc độ tăng trưởng chóng mặt của nền công nghiệp nước này đã biến họ trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và đứng đầu về tiêu thụ các nguồn tài nguyên như quặng sắt, than đá cũng như nhập khẩu ròng dầu lớn nhất thế giới.
Theo Societe Generale, một công ty dịch vụ tài chính và ngân hàng đa quốc gia của Pháp thì việc hướng ra nền kinh tế thế giới của Bắc Kinh bắt đầu từ thế kỷ 21, được biểu hiện bằng cách tham gia WTO năm 2001. Điều này đã khiến giá dầu khi ấy tăng từ 20 USD/thùng lên 100 USD. Trong thời gian này, nhu cầu của Trung Quốc đã tăng ngang với tổng mức tiêu thụ dầu của Anh và Nhật Bản, khiến thị trường dầu trở nên khả quan hơn tương tự như các mặt hàng khác.
Kết quả là Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới trong năm 2013, vượt qua cả Mỹ và hiện nhập khẩu gần 60% nguồn cung.
“New Normal” – Bình thường mới
Tuy nhiên, nhu cầu dầu của Trung Quốc lại không tiếp tục tăng, Bắc Kinh hiện đang phải vật lộn để chống đỡ với một nền kinh tế sút kém. Tạp chí Nghiên cứu ANZ dự đoán nền kinh tế Trung Quốc sẽ chỉ tăng trưởng 6,8% trong năm 2015, giảm so với ước tính 7,4% trong năm ngoái và là mức tăng thấp nhất kể từ năm 1990, trong bối cảnh quá trình giảm nợ và năng suất dư thừa của một số ngành công nghiệp vẫn tiếp tục diễn ra.
Trong khi đang mở rộng từ một nền tảng lớn, “Nền kinh tế bình thường mới” của nước này tăng trưởng chậm hơn và điều này không có lợi cho sự tăng vọt cả về nhu cầu lẫn giá cả dầu mỏ, Craig Stephen, người phụ trách mục Market Watch lập luận.
“Thị trường dầu mỏ không thể tìm thấy một quốc gia hay thậm chí là một lục địa nào khác có thể tiếp quản mức độ tăng nhu cầu như thế này. Trong khi đó, dự báo dài hạn là Trung Quốc có thể duy trì bất cứ điều gì gần với tốc độ tăng trưởng gần đây của nó có vẻ như là sai lầm”, ông Craig lập luận.
Các nhà nghiên cứu chính phủ Trung Quốc ước tính có gần 6,8 nghìn tỷ USD giá trị “đầu tư không hiệu quả” tại Trung Quốc từ năm 2009 đến 2013. Điều này dẫn tới sự dư thừa lớn trong nhiều ngành công nghiệp của Trung Quốc. Ngay cả một số thị trường tiêu dùng có vẻ chậm chạp cũng khiến lượng hàng tồn kho tăng vọt. Đáng chú ý nhất, liên quan đến nhu cầu dầu của Trung Quốc, vào tháng 11, thị trường xe khách của Trung Quốc chỉ tăng 5 %, một sự sụt giảm lớn so với mức tăng trưởng 2 con số của thị trường ô tô lớn nhất thế giới trước đó.
“Trong quá khứ, nhu cầu có vẻ không thay đổi nhiều khi mà mức độ tăng trưởng tiếp tục ngay cả khi giá dàu thô đạt mức 3 chữ số. Nhưng giai đoạn này trùng hợp với ngành công nghiệp có vốn là nước chiếm ưu thế, trong khi nhu cầu về xăng dầu cho xe ô tô có thể phụ thuộc vào tôc độ tăng trưởng thu nhập của tầng lớp trung lưu”, Stephen nói.
Báo cáo thị trường dầu tháng 12 của IEA ghi nhận “sự sụt giảm mạnh trong tăng trưởng nhu cầu dầu của Trung Quốc” cùng với Châu Âu và Nhật Bản và điều này góp phần vào viễn cảnh suy yếu. Ước tính tổng nhu cầu tăng trưởng của Trung Quốc chỉ là 2,5% trong năm 2014 và 2015, mức tăng nhiên liệu vận tải và nguyên liệu hóa dầu tăng không đáng kể so với sự suy giảm nhu cầu xăng, dầu diesel và dầu nhiên liệu.
Mạng lưới lợi ích
Tuy nhiên, giá dầu giảm vẫn được xem là mạng lưới lợi ích cho nền kinh tế Trung Quốc. Ngân hàng America Merrill Lynch ước tính GDP của Trung Quốc tăng khoảng 0,15% cho mỗi 10% giá dầu giảm. Số dư tài khoản hiện tại của Trung Quốc tăng lên 0,2% GDP và mức lạm phát tiêu dùng giảm xuống 0,25%.
Các nhà nghiên cứu của IMF ước tính giá dầu giảm có thể làm tăng GDP của Trung Quốc từ 0,4 - 0,7% trong năm nay và 0,5 – 0,9% trong năm 2016.
Trong năm 2013, Trung Quốc nhập khẩu khoảng 280 triệu tấn dầu thô với tổng chi phí gần 220 tỷ USD, nhưng giá dầu giảm trong thời gian gần đây có thể làm giảm 30 tỷ USD hóa đơn, Lin Boqiang, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Năng lượng Trung Quốc tại ĐH Hạ Môn cho biết.
Người tiêu dùng, các nhà sản xuất và các công ty vận chuyển Trung Quốc là người hưởng lợi từ giá dầu giảm trong khi các công ty năng lượng và người lao động, trong đó có cả ngành khí đá phiến non trẻ của nước này lại thất bại.
Giá dầu giảm và giá các hàng hóa khác tăng thêm áp lực đối với Trung Quốc để phá giá đồng tiền, thúc đẩy xuất khẩu. Điều này có khả năng gây ra một “làn sóng giảm phát” tỏa ra từ lĩnh vực sản xuất, Jay Pelosky, đến từ J2Z Advisory nói với tờ Australian Financial.
Thậm chí nếu giá dầu là 60 USD/thùng, lạm phát toàn cầu sẽ lao tới mức chưa từng thấy kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, từ 1,5% tới 1%, mặc dù nó sẽ nâng mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu lên 0,5%, theo JP Morgan Securities.
Đối với một nền kinh tế toàn cầu đã phải vật lộn để đối phó với sự suy thoái giảm phát ở châu Âu và Nhật Bản, sự suy giảm của Trung Quốc sẽ làm tăng thêm sự tập trung vào Mỹ như động lực chính của sự tăng trưởng toàn cầu, cùng với các nền kinh tế mới nổi của châu Á.
Về chính trị, sự trượt giá dầu có khả năng làm giảm sự bất ổn địa chính trị bằng cách làm suy yếu các quốc gia chống phương Tây.
“Bất kỳ sự tái phân bố thu nhập lớn nào cũng đều có thể làm tăng căng thẳng chính trị”, nhà kinh tế học Holger Schmieding đến từ Ngân hàng Berenberg phát biểu trong một báo cáo nghiên cứu gần đây. “Nhưng khi mà Mỹ, châu Âu, Nhạt Bản, Trung Quốc và Ấn Độ mạnh lên còn Nga, Iran, Ả Rập Saudi và Venezuela suy yếu dường như sẽ khiến thế giới an toàn hơn”
Tuy nhiên, các nhà phân tích không cho rằng giá dầu sẽ giảm mãi, công ty an ninh Morgans và UBS dự đoán giá dầu sẽ phục hồi lại mức 100 USD.
Trong khi Trung Quốc dự kiến sẽ chiếm ưu thế về nhu cầu năng lượng đến giữa những năm 2020, thì dân số già và mức tăng trưởng kinh tế giảm có thể biến Ấn Độ trở thành quốc gia có nhu cầu năng lượng hàng đầu vào năm 2040, IEA dự đoán.
Cho tới giờ, cả Bắc Kinh và Washington đều thu được lợi ích từ việc giá dầu giảm bất ngờ.
Bảo Linh (tin tức nationalinterest)