Để ngăn Trung Quốc thống trị Biển Đông, Mỹ cần thực hiện một chiến lược chống cưỡng chế khẩn cấp hơn để duy trì trạng thái cân bằng quyền lực có lợi cho mình.
Mỹ rót tiền cho đối tác quanh Biển Đông để áp chế Trung Quốc (P1)
Trong bài viết "South China Sea: 3 Ways to Win the Money War" đăng tải trên tờ National Interest của Mỹ, tác giả Edward Linczer đã đưa ra 3 cách để Mỹ "đánh bại" Trung Quốc trong cuộc chiến tiền tệ.
Thứ nhất, Mỹ cần cung cấp vũ khí bổ sung và huấn luyện để tăng cường khả năng hoạt động trên biển của các đối tác.
Tàu Hải quân Malaysia và Mỹ tham gia tập trận chung CARAT 2008. Ảnh: US Navy |
Thứ hai, Mỹ cần phối hợp với Nhật Bản một cách rõ ràng hơn trong việc cung cấp hỗ trợ an ninh cho các đối tác ở Đông Nam Á. Tokyo đã trở nên chủ động hơn trong khu vực, do lo ngại khả năng Trung Quốc cắt đứt các tuyến đường thương mại trên biển mà Nhật Bản coi là huyết mạch kinh tế.
Thủ tướng Shinzo Abe đã hướng Nhật Bản tới một Chính sách ngoại giao tích cực hơn khi tăng ngân sách quốc phòng và nới lỏng các hạn chế trong hiến pháp để cho phép Lực lượng Tự vệ nước này hợp tác với các đối tác trong các nhiệm vụ an ninh hạn chế. Vào tháng 4/2014, Tokyo cũng đã bỏ lệnh cấm xuất khẩu vũ khí có từ lâu. Kể từ đó, Nhật Bản đã ký các thỏa thuận quốc phòng R&D với Australia và Anh. Tập đoàn Công nghiệp nặng Mitsubishi đã đấu thầu để xây dựng tàu ngầm thế hệ tiếp theo của Australia.
Dưới chính sách "đóng góp tích cực cho hòa bình" của ông Abe, Tokyo đã ký kết các thỏa thuận đối tác chiến lược với Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam. Nhật Bản cũng đã đồng ý cung cấp tàu tuần tra và máy bay cho các nước này. Tháng 5/2015, Nhật Bản và Philippines đã tổ chức cuộc tập trận hải quân chung đầu tiên. Gần đây, Việt Nam cũng đã đồng ý tham gia tập trận hải quân chung với Nhật. Cuối năm nay, Nhật Bản đã lên kế hoạch tham gia cuộc tập trận 3 bên với hải quân Mỹ và Ấn Độ tại biển Philippines.
Tiến về phía trước, Mỹ cần phải phối hợp nỗ lực xây dựng năng lực rõ ràng hơn với Nhật Bản. Trong năm 2015, Washington đã thành lập nhóm hợp tác song phương với cả Indonesia và Việt Nam để giúp làm rõ những nhu cầu quốc phòng trên biển của họ. Nhật Bản nên tham gia vào các cuộc tham vấn để ngăn chặn những nỗ lực dư thừa hoặc mâu thuẫn. Ở một số lĩnh vực, Nhật Bản sẽ có thể cung cấp vũ khí với mức giá cạnh tranh hơn. Ví dụ như máy bay tuần tra trên biển Kawasaki P-1 của Nhật giá 90 triệu USD, rẻ hơn so với một chiếc P-8 Poseidon của Mỹ.
Ngoài việc chuyển giao vũ khí trực tiếp, Nhật là một nhà cung cấp tích cực "Hỗ trợ phát triển chính thức - ODA" chiến lược, liên kết trợ giúp và lợi ích an ninh. Trong năm 2014, Nhật đã sửa đổi điều lệ ODA, cho phép cấp vốn cho các chương trình an ninh của các nước ASEAN. Nếu đúng kế hoạch, việc Nhật Bản rót vốn cho lưới điện, sân bay, cầu cảng có thể vừa là cơ sở hạ tầng kinh tế, vừa phục vụ cho quốc phòng. ODA sử dụng với 2 mục đích kín đáo hơn so với chuyển giao vũ khí trực tiếp, vì thế nó sẽ xoa dịu những người dân theo chủ nghĩa hòa bình của Nhật Bản và làm giảm cơ hội để Bắc Kinh lên tiếng chỉ trích.
Cuối cùng, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ phải thiết lập được những tiêu chuẩn thực tế cho bất cứ chương trình mở rộng năng lực đối tác nào tại Đông Nam Á. Các đối tác của Washington tại Đông Nam Á hiện nay có lực lượng hải quân và bảo vệ bờ biển yếu.
Đặt sự thiếu cân bằng quân sự này vào viễn cảnh tương lai sẽ thấy Trung Quốc đã triển khai nhiều lính hải quân hơn so với Nhật Bản, Indonesia, Việt Nam, Philippines và Malaysia gộp lại.
Ngay cả những đối tác sẵn sàng, như Philippines, cũng thiếu năng lực để tiếp thu công nghệ cao của Mỹ một cách nhanh chóng. Lực lượng Vũ trang Philippines trong nhiều thập kỷ đã chịu sự quản lý yếu kéo và đấu đá nội bộ quan chức: hiện tại họ còn không có nổi ngân sách cho riêng mình. Giúp Philippines đạt được vị thế ngăn chặn đáng tin tối thiểu sẽ là chủ trương của đời tổng thống Mỹ tiếp theo.
Trong thời gian tới, chính quyền Mỹ tiếp theo nên tập trung nỗ lực lấp đầy khoảng trống trong khả năng giám sát, trinh sát và tình báo hàng hải (ISR) của các đối tác ở Đông Nam Á. Nếu các nước ven biển châu Á không thể nhìn thấy hoạt động của Trung Quốc tại vùng biển của mình, họ sẽ khó lòng mà ngăn chặn việc Bắc Kinh chiếm thêm đảo ở Trường Sa.
Các máy bay không người lái công nghệ thấp, những xuồng ca nô đã cũ của lực lượng Bảo vệ Bờ biển Mỹ và mạng lượng chia sẻ thông tin của Mỹ sẽ phải đi một chặng đường dài để tăng cường nhận thức tình huống cho các đối tác Mỹ. Mỹ thậm chí có thể xem xét sử dụng chương trình FMF của mình để khuyến khích các đối tác trong khu vực Đông Nam Á tham gia chia sẻ thông tin nhận thức hàng hải.
Khi cán cân quyền lực ở Biển Đông tiếp tục dịch chuyển theo hướng có lợi cho Trung Quốc, mở rộng xây dựng năng lực đối tác phải là một thành phần trong phản ứng chiến lược lớn hơn của Mỹ. Chỉ viện trợ quân sự sẽ không thay đổi được khả năng của đối tác một cách nhanh chóng nhưng sẽ mở rộng được khả năng quốc phòng của họ, đảm bảo được sức mạnh của Mỹ trong khu vực và khiến việc quân sự hóa vùng duyên hải châu Á của Trung Quốc phải trả giá.
Bảo Linh (National Interest)