Không hổ danh là 'thần cơ diệu toán', Khổng Minh hay Gia Cát Lượng được xem là bậc thầy trong việc 'bài binh bố trận' của nước Thục thời Tam quốc.
Câu chuyện về cái chết của Khổng Minh đã trở thành một trong những điển tích vô cùng nổi tiếng trong dân gian và đến nay hậu thế vẫn không khỏi tò mò vì tài năng thao lược dự liệu như thần của Gia Cát Lượng.
Theo đó, vốn là Thừa tướng của nước Thục, Khổng Minh cả đời một lòng tận tụy trung quân ái quốc và thậm chí đến khi biết mình sắp gần đất xa trời, ông đã để lại binh thư cùng kế sách, di ngôn để quân Thục có thể an toàn không bị hao tổn binh lục.
Trước khi chết, Không Minh đã dặn dò Dương Nghi rằng không được làm đám tang, phất cờ đánh trống mà hãy làm một bàn thờ lớn và để thi thể của ông ngồi trên đó. Đặc biệt, bên trọng miệng 'ngậm 7 hạt gạo, dưới chân đặt một ngọn đèn sáng' và giữ vẻ yên ổn không được than khóc buồn rầu.
Bởi theo Khổng Minh thì như thế Tướng Tinh mới không rơi xuống và âm hồn của ông cũng tự khắc nhấc lên được. Khi Tướng Tinh không sa thì sẽ không dám 'khinh cử vọng động' và quân Thục mới có thể chậm chãi rút lui'.
Khổng Minh cũng dự liệu nếu như Tư Mã Ý đuổi theo, thì nên dàn thành thế trận, quay cờ đánh trống trwor lại và đẩy xe có tượng gỗ của ông ra phía trước quân, lệnh cho tất cả tướng sĩ dàn hai bên.
Không hổ danh 'dự liệu như thần', mọi tính toán của Khổng Minh sau đó đều khiến hậu thế phải trầm trồ.
Khi Tư Mã Ý quan sát thiên văn thì thấy một ngôi sao lớn màu đỏ, tia sáng tỏa ra phía có góc, từ phía đông bắc chạy về hướng tây nam sau đó đến thẳng Thục doanh, 3 lần sa xuống và 3 lần vụt lên.
Ngay lập tức Tư Mã Ý vui mừng la lớn rằng Khổng Minh đã chết và lập tức khởi binh đuổi đánh. Nhưng khi ra đến cửa trại lại sinh lòng đa nghi cho rằng Khổng Minh làm ra thuật này để dụ mình và nếu đuổi theo thì sẽ 'trúng kế'.
Sau đó quay ngựa về và sai Hạ Hầu Bá dẫn vài chục quân binh đi do thám.
Ngay khi nhận được tin báo rằng quân Thục đã rút binh, Tư Mã Ý mới gấp gáp lệnh quân đuổi theo nhưng quân Thục đã làm theo lời dặn dò của Khổng Minh khi đẩy xe có tượng gỗ ra trận khiến cho quân của Tư Mã Ý bỏ chạy toán loạn.
Trận chiến này sau đó đã thành trò cười cho thiên hạ khi dân gian lưu truyền câu nói 'Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt" (Gia Cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống).
Một trong những điều khiến hậu thế không khỏi thắc mắc chính là Khổng Minh không hề lý giải lý do vì sao ngậm gạo thì Tướng Tinh sẽ không rơi.
Và mãi tận sau này vào thời nhà Đường, một văn nhân tên là Trần Cái đã soạn thảo Ngũ Trượng Nguyên Thi để nói về câu chuyện này.
Theo đó, những gì được Gia Cát Lượng dặn dò gồm 'túc hạ đạp thổ' (dưới chân chạm đất' và 'kính yên tâm tiền (gương đặt trước tim', trong miệng ngậm 7 hạt gạo và một lượng nước thích hợp, biểu thị vẫn còn khả năng ăn uống như người đang sống, trong tay vẫn cầm bút và binh thư, vẫn có ngọn đèn sáng trước đầu cho thấy vẫn suy nghĩ về bài binh bố trận.
Trên thực tế, nghi thức này đã có từ lâu đời và việc để một số đồ vật trong miệng người đã khuất rồi liệm xác, chôn cất được xem là một tập tục.
Do Khổng Minh không phải chư hầu nên chức vị Thừa Tướng của ông được xem như một cấp của đại phu, do đó ngậm gạo là phù hợp với thân phận đó.
Lý giải về lý do nhất thiết phải là 7 hạt gạo là bởi trong tập tục mai táng của người phương Đông, số 7 mang ý nghĩa thần bí và mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc.
Cùng với đó, những người đã mất sau 7 ngày qua đời phải có lễ 'thất đầu' bởi người ta quan niệm đây là thời điểm linh hồn sẽ trở về nhà nên người nhà cần chuẩn bị đồ ăn để cúng.
Chính vì thế, dùng bảy hạt gạo cũng được xem là mượn thâm ý của con số này trong văn hóa phương Đông nhưng cũng là ngụ ý cao thâm khó lường của Khổng Minh mà đến nay hậu thế vẫn phải ngả mũ bái phục.